David Cameron
David William Donald Cameron, Nam tước Cameron xứ Chipping Norton[1] (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1966) là một chính khách người Anh hiện giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao kể từ tháng 11 năm 2023. Ông từng là Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh từ năm 2010 đến năm 2016, và là lãnh đạo của Đảng Bảo thủ từ năm 2005 đến năm 2016.
Nam tước Cameron | |
---|---|
Chân dung chính thức, 2023 | |
Ngoại trưởng Anh | |
Nhậm chức 13 tháng 11 năm 2023 | |
Thủ tướng | Rishi Sunak |
Tiền nhiệm | James Cleverly |
Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland | |
Nhiệm kỳ 11 tháng 5 năm 2010 – 13 tháng 7 năm 2016 6 năm, 63 ngày | |
Nữ hoàng | Elizabeth II |
Phó Thủ tướng | Nick Clegg |
Tiền nhiệm | Gordon Brown |
Kế nhiệm | Theresa May |
Lãnh đạo Phe đối lập | |
Nhiệm kỳ 6 tháng 12 năm 2005 – 11 tháng 5 năm 2010 4 năm, 156 ngày | |
Cấp phó | William Hague George Osborne |
Nữ hoàng | Elizabeth II |
Thủ tướng | Tony Blair Gordon Brown |
Tiền nhiệm | Michael Howard |
Kế nhiệm | Harriet Harman |
Nghị sĩ Thượng viện Anh | |
Nhậm chức 13 tháng 11 năm 2023 bổ nhiệm trọn đời | |
Nghị sĩ Hạ viện Anh đại diện cho Witney | |
Nhiệm kỳ 7 tháng 6 năm 2016 – 12 tháng 9 năm 2016 97 ngày | |
Tiền nhiệm | Shaun Woodward |
Kế nhiệm | Robert Courts |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 9 tháng 10, 1966 London, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland |
Đảng chính trị | Bảo thủ |
Phối ngẫu | Samantha Sheffield (1996–nay) |
Con cái | Ivan Reginald Ian (mất) Nancy Gwen Arthur Elwen |
Alma mater | Trường Brasenose, Đại học Oxford |
Chữ ký |
David Cameron học liên ngành triết học, chính trị học và kinh tế học tại Đại học Oxford và được trao bằng sinh viên ưu tú hạng nhất. Sau đó ông tham gia vào Ban nghiên cứu Đảng Bảo thủ và trở thành cố vấn đặc biệt cho Norman Lamont, và sau đó cho Michael Howard. Ông là Giám đốc Vụ doanh nghiệp của Carlton Communications trong bảy năm.
Ông lần đầu tranh cử vào Hạ viện Anh tại đơn vị bầu cử Stafford vào năm 1997 nhưng thất bại. Đến kỳ bầu cử năm 2001, David Cameron trúng cử và trở thành Hạ nghị sĩ đại diện cho đơn vị bầu cử Witney của Oxfordshire. Hai năm sau, ông tham gia ban lãnh đạo của Phe đối lập và nhanh chóng thăng chức, trở thành người đứng đầu cục điều phối chính sách của Đảng Bảo thủ trong cuộc tổng tuyển cử năm 2005.
David Cameron được xem là một chính trị gia già dặn, ôn hòa, thu hút cử tri trẻ tuổi. Năm 2005, ông đã đắc cử trong cuộc bầu cử lãnh đạo bảo thủ, trở thành Lãnh đạo Phe đối lập tại Hạ viện. Dưới sự lãnh đạo Cameron, Đảng Bảo thủ đã được giành được ủng hộ dư luận trước Công Đảng của Tony Blair trong các cuộc thăm dò dư luận.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2010, Đảng Bảo thủ giành được số ghế nhiều nhất, nhưng bị thiếu phiếu để giành được đa số ghế cần thiết để thành lập chính phủ theo quy định của Hiến pháp. Sau khi Gordon Brown từ chức, David Cameron được bổ nhiệm làm Thủ tướng trong liên minh với Đảng Tự do Dân chủ.[2]
Sau khi Vương quốc Anh và Bắc Ireland bỏ phiếu rời khỏi Liên minh châu Âu trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 6 năm 2016, Cameron tuyên bố từ chức Thủ tướng và người kế nhiệm ông là Theresa May.[3] Ông được các nhà sử học và học giả đánh giá ở mức trung bình hoặc trung bình thấp trong số các cựu thủ tướng Anh Quốc.[4]
Ngày 13 tháng 11 năm 2023, ông bất ngờ được thủ tướng Rishi Sunak bổ nhiệm làm Thượng nghị sĩ và Ngoại trưởng Anh. Ông trở thành cựu thủ tướng đầu tiên quay lại chính trường và tham gia vào nội các kể từ năm 1970.[5]
Tham khảo sửa
- ^ “Parliamentary career of Lord Cameron of Chipping Norton”. UK Parliament. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2023.
- ^ “David Cameron becomes youngest Prime Minister in almost 200 years - Telegraph”. web.archive.org. 13 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ Stewart, Heather; Mason, Rowena; Syal, Rajeev (24 tháng 6 năm 2016). “David Cameron resigns after UK votes to leave European Union”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
- ^ “What made Cameron the worst Prime Minister in living history”. The Independent (bằng tiếng Anh). 14 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
- ^ Maidment, Jack; Penna, Dominic (13 tháng 11 năm 2023). “Cabinet reshuffle live: Ex-minister submits letter of no confidence in Rishi Sunak”. The Telegraph (bằng tiếng Anh). ISSN 0307-1235. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
Liên kết ngoài sửa
- Trang web chính thức Lưu trữ 2014-03-27 tại Wayback Machine
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về David Cameron. |