Danh sách hoàng đế nhà Hán
Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221 – 206 TCN) và được tiếp nối bởi thời kỳ Tam Quốc (220 – 265). Kéo dài hơn 4 thế kỷ, Nhà Hán được xem là một trong các triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Lịch sử Nhà Hán được chia thành hai giai đoạn khác nhau là Tây Hán (202 TCN – 9) với kinh đô ở Trường An và Đông Hán (25 – 220) với kinh đô ở Lạc Dương.
Nhà Hán được thành lập bởi Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ (cai trị 202 – 195 TCN), một lãnh tụ khởi nghĩa nông dân nổi dậy chống lại sự cai trị hà khắc của Nhà Tần, và sau khi Nhà Tần sụp đổ ông đánh bại Sở vương Hạng Vũ vào năm 202 TCN. Trong số các vị Hoàng đế Nhà Hán, tại vị lâu nhất là Hán Vũ Đế (cai trị 141 – 87 TCN) với 54 năm. Triều đại của họ Lưu bị gián đoạn khi Vương Mãng – một ngoại thích Nhà Hán – soán ngôi và kiến lập Nhà Tân (9 – 23). Vương Mãng bị đánh bại và bị giết vào ngày 6 tháng 10 năm 23 trong cuộc khởi nghĩa Lục Lâm.[2] Sau đó, hoàng thân Lưu Tú, tức Hán Quang Vũ Đế (cai trị 25 – 57) đã tức vị vào ngày 5 tháng 8 năm 25, khôi phục lại chính quyền Nhà Hán, tiếp tục sự thịnh trị.[3][4] Hoàng đế cuối cùng của triều đại này là Hán Hiến Đế (cai trị 189 – 220), đã được quyền thần Đổng Trác đưa lên làm vua bù nhìn. Sau khi Đổng Trác bị tiêu diệt, ông vẫn bị một quyền thần khác là Tào Tháo (155 – 220) thao túng. Tào Tháo chuyên quyền lấn át thiên tử, buộc Hiến Đế phải phong mình làm Ngụy Vương.[5] Vào năm 220, con Tào Tháo là Tào Phi lại buộc Hán Hiến Đế phải thiện nhượng ngai vị Hoàng đế cho mình, sử gọi là Ngụy Văn Đế (cai trị 220 – 226), qua đó chấm dứt cơ nghiệp Nhà Hán kéo dài hơn 400 năm. Ngay sau khi Tào Phi cướp ngôi, một hoàng thân họ Lưu là Lưu Bị đã xưng đế ở đất Thục, lập nên Nhà Thục Hán, tuy nhiên do Thục Hán chỉ cai trị đất ở phía Tây Nam Trung Quốc chứ không cai trị Trung Nguyên, nên không được tính là một phần của Nhà Hán.
Trong chính quyền nhà Hán, hoàng đế là thẩm phán kiêm nhà lập pháp tối cao, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và là người duy nhất có quyền bổ nhiệm quan chức cấp cao ở trung ương và địa phương, những người hưởng mức lương từ 600 thạch trở lên. Như vậy, trên lý thuyết, hoàng đế nắm quyền lực vô song.
Quy ước đặt tên
sửaDanh xưng Hoàng đế
sửaVào thời Tiên Tần – gồm nhà Hạ (thế kỷ 21 – thế kỷ 16 TCN), nhà Thương (thế kỷ 17 – thế kỷ 11 TCN), nhà Chu (thế kỷ 11 – 256 TCN) – các quân chủ dùng tước hiệu "Vương" (王).[6] Từ thời Nhà Chu, danh xưng "thiên tử" (天子), nghĩa là "con trời," cũng bắt đầu được sử dụng để khẳng định tính chính danh của các vị vua, gắn liền với khái niệm thiên mệnh.[6] Năm 221 TCN, Tần Vương Doanh Chính chinh phục toàn bộ các chư hầu thời Chiến Quốc, thống nhất thiên hạ và lập nên Nhà Tần (221 TCN – 206 TCN). Để vượt lên trên các quân vương trước đó thuộc Nhà Thương và Nhà Chu, Doanh Chính sáng tạo ra tước hiệu mới là "Hoàng đế" (皇帝), trở thành Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, tức Tần Thủy Hoàng. Tước hiệu này được ghép từ danh xưng Tam Hoàng Ngũ Đế (三皇五帝), bắt nguồn từ truyền thuyết Trung Hoa, nhằm biểu trưng cho quyền năng thần thánh và uy quyền tối thượng của người cai trị.[7] Từ đó, tước hiệu Hoàng đế được truyền thừa qua các triều đại, trở thành biểu tượng cao nhất của ngôi vị quân chủ. Truyền thống này kéo dài hơn hai thiên niên kỷ, từ thời Tần Thủy Hoàng đến khi nhà Thanh diệt vong vào năm 1911, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ trong lịch sử Trung Quốc.[8]
Thụy hiệu, miếu hiệu và niên hiệu
sửaTừ thời nhà Thương cho đến thời nhà Tùy (581 – 618), các vị quân chủ Trung Hoa chủ yếu được biết đến qua thụy hiệu, một tôn xưng được đặt sau khi băng hà để ghi nhận công trạng và đức hạnh, phản ánh quan điểm của triều đình đối với vị quân vương quá cố. Những thụy hiệu này được ghi chép lại trong Nhị thập tứ sử.[8] Đối với miếu hiệu, dòng tên này được sử dụng lần đầu tiên dưới thời trị vì của Hoàng đế Hán Cảnh Đế (trị vì 157 – 141 TCN). Tuy nhiên, phải đến thời nhà Đường (618 – 907), miếu hiệu mới trở thành tên gọi phổ biến trong văn bản sử học để chỉ các vị quân chủ, một truyền thống tiếp tục kéo dài qua các triều đại nhà Tống (960 – 1279) và nhà Nguyên (1271 – 1368). Đến thời nhà Minh (1368 – 1644) và nhà Thanh (1644 – 1911), mỗi hoàng đế thường chọn một niên hiệu duy nhất để đánh dấu thời kỳ trị vì của mình. Do đó, niên hiệu trở thành cách gọi ưa chuộng trong sử sách khi nhắc đến các vị hoàng đế của hai triều đại này.[9]
Việc sử dụng niên hiệu chính thức được thiết lập dưới thời Hán Vũ Đế (trị vì 141–87 TCN), nhưng khởi nguyên của hệ thống này đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử Trung Hoa. Phương pháp ghi chép năm sớm nhất, có từ thời nhà Thương, lấy năm đầu tiên của một vị quân chủ làm "năm thứ nhất". Khi vị quân chủ băng hà, triều đại mới bắt đầu với năm đầu tiên của người kế vị. Đến thế kỷ 4 TCN, hệ thống này được cải tiến: năm đầu tiên của triều đại mới không còn tính ngay sau cái chết của vị vua tiền nhiệm mà bắt đầu từ ngày đầu tiên của năm âm lịch tiếp theo. Một sự kiện quan trọng đánh dấu sự thay đổi này là vào năm 324 TCN, khi Tần Huệ Văn công xưng Vương, ông đã ra lệnh khởi đầu lại chu kỳ đếm năm của triều đại mình từ "năm thứ nhất".[10] Đến năm 163 TCN, Hán Văn Đế (trị vì 180–157 TCN) tái sử dụng cách tính này khi ban hành lịch mới, đưa chu kỳ đếm năm của triều đại ông quay trở về năm đầu tiên.[11]
Dưới thời Tây Hán, con số sáu được xem là biểu tượng của may mắn và sự trọn vẹn. Do đó, từ thời Hán Cảnh Đế đến Hán Vũ Đế, các hoàng đế thường thay đổi niên hiệu sau mỗi chu kỳ sáu năm trị vì.[11] Mỗi chu kỳ được gọi theo thứ tự như "nguyên niên" (元年), "nhị nguyên" (二元), "tam nguyên" (三元), tiếp tục tuần tự. Tuy nhiên, hệ thống này ngày càng trở nên phức tạp và bất tiện, đặc biệt khi bước vào chu kỳ thứ năm, như "ngũ nguyên tam niên" (五元三年) vào năm 114 TCN, khiến việc ghi chép và quản lý trở nên rườm rà.[11] Trước tình trạng đó, một viên quan đã kiến nghị cải cách, đề xuất đổi tên mỗi lần "khởi đầu" bằng những ký tự mới. Hán Vũ Đế nhanh chóng chấp thuận đề xuất này vào năm 110 TCN.[12] Cùng thời điểm, sau khi hoàn thành nghi lễ tế trời (封, phong) trên núi Thái Sơn, Vũ Đế đặt tên cho niên hiệu mới là "Nguyên Phong" (元封), đánh dấu sự ra đời chính thức của hệ thống niên hiệu trong lịch sử Trung Hoa.[12] Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế ban hành lịch Thái Sơ (太初), nghĩa là "Khởi đầu vĩ đại", và đổi sang niên hiệu cùng tên.[13] Từ thời điểm này cho đến khi nhà Tây Hán kết thúc, niên hiệu được thay đổi sau khoảng bốn năm trị vì. Sang thời Đông Hán, việc đặt niên hiệu không còn tuân theo bất kỳ chu kỳ cố định nào. Thay vào đó, các hoàng đế có toàn quyền quyết định thời điểm đặt và thay đổi niên hiệu, thường để đánh dấu những sự kiện chính trị quan trọng hoặc các điềm lành cát tường.[13]
Nhiếp chính và Hoàng thái hậu
sửaTrong các thời kỳ, đôi khi xuất hiện những trường hợp đặc biệt. Khi một Hoàng đế lĩnh kế vị lúc đang là trẻ sơ sinh thì một nhiếp chính, thường là Hoàng thái hậu hoặc một trong các thân vương hoàng tộc sẽ đảm nhận nhiệm vụ thay mặt Hoàng đế cai trị cho đến khi Hoàng đế trưởng thành. Thậm chí, các cuộc đảo chính, cướp quyền bởi ngoại thích có thể diễn ra. Đầu thời Tây Hán, sau khi Cao Tổ Lưu Bang qua đời, vợ của ông là Lã hậu trở thành nhà cai trị tối cao của Tây Hán suốt 15 năm (195 – 180 TCN), chọn Tiền Thiếu Đế (188 – 184 TCN), Hậu Thiếu Đế (184 – 180 TCN), những người cháu nội của mình làm vua bù nhìn.[14] Phe cánh của Lã hậu bị lật đổ trong thời kỳ loạn chư Lã năm 180 TCN và Lưu Hằng giành quyền trở thành Hán Văn Đế (180 – 157 TCN).[15]
Những năm 90 TCN, trước khi Hán Vũ Đế qua đời năm 87 TCN, ông đã bổ nhiệm Hoắc Quang (mất năm 68 TCN), Kim Mật Đê (mất năm 86 TCN) và Thượng Quan Kiệt (mất năm 80 TCN) làm các phụ chính đại thần hỗ trợ Chiêu Đế (cai trị 87 – 74 TCN). Các vị phụ chính mà chủ yếu lãnh đạo bởi Hoắc Quang đã phụ tá Chiêu Đế, lập rồi phế Xương Ấp Vương và cuối cùng là Tuyên Đế, trải qua nhiều biến cố nhưng vẫn giữ được hoàng tộc họ Lưu Nhà Tây Hán. Về sau, gia tộc của Hoắc Quang cũng bị xử tử, cho thấy sự khó khăn của chức vị Phụ chính Đại thần.[16]
Hoàng đế
sửaThời kỳ nhà Hán: 202 TCN – 220, cụ thể bao gồm Tây Hán (202 TCN – 9) và Đông Hán (25 – 220). Suốt bốn thế kỷ thống trị, nhà Hán xây dựng được nhiều hình thái đặc biệt cho lịch sử Trung Quốc. Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi chiến thắng Hán – Sở tranh hùng, đã lập ra Nhà Hán nối tiếp nhà Tần. Nhà Hán cũng là thời đại bắt đầu của việc đặt tên và lan truyền cách đặt tên người Hán.[17]
Sau khi Cao Tổ qua đời, tình hình chính trị trở nên phức tạp với nhiều cuộc đảo chính và quyền lực bị Lã Hậu nắm lấy.[18] Quyền lực họ Lưu cuối cùng phục hồi dưới thời Văn Cảnh chi trị (文景之治) của Hán Văn Đế Lưu Hằng,[19] Hán Cảnh Đế Lưu Khải,[20] đất nước thái bình chi trị. Nhà Hán tiếp tục đẩy mạnh và đạt đến đỉnh cao dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt,[21] được xem là một trong những Hoàng đế vĩ đại của Trung Quốc. Sau Vũ Đế, nhà Hán gặp phải biến cố về tình hình kinh tế - xã hội, được kiếm soát trong thời Chiêu Tuyên trung hưng của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng[22] và Hán Tuyên Đế Lưu Bệnh Dĩ.[23] Tây Hán dần suy tàn và quyền lực hoàng gia bị cướp lấy bởi Vương Mãng.[24]
Vào đúng thời điểm đó, Lưu Tú,[25] một người con cháu dòng dõi họ Lưu đã lãnh đạo sự nghiệp phục hồi quyền lực dòng họ Lưu, đã đánh bại các lực lượng tiếm quyền và cát cứ, mở ra thời kỳ thịnh trị tiếp theo của nhà Hán sau nhiều năm biến động, khôi phục và lập ra Đông Hán: Hán Quang Vũ Đế và Quang Vũ trung hưng (光武中興). Nhà Hán tiếp tục phát triển thời Minh Chương chi trị (明章之治) của Hán Minh Đế Lưu Dương[26] và Hán Chương Đế Lưu Đát,[27] mức độ tốt thời Vĩnh Nguyên chi trị (永元之治) của Hán Hòa Đế Lưu Triệu.[28] Trong các thời kỳ cuối, quyền lực của các hoàng đế nhà Hán dần sa sút bởi các thế lực nổi loạn và kết thúc ở thời Tam Quốc.
Danh sách
sửaDưới đây là danh sách đầy đủ các hoàng đế của nhà Hán, bao gồm tên huý, thuỵ hiệu và niên hiệu. Không bao gồm nhiếp chính hay Hoàng thái hậu chấp chính.
Thụy hiệu[note 1] | Tên thật | Trị vì | Niên hiệu | Thời gian[note 2] | |||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Nhà Tây Hán 202 TCN – 9 CN | |||||||
Cao Tổ | 高祖 | Lưu Bang | 劉邦 | k. 206 – 195 TCN[29][30] | [17] | ||
Huệ Đế | 惠帝 | Lưu Doanh | 劉盈 | 195–188 TCN[31] | không có[32] | ||
Tiền Thiếu Đế | 前少帝 | Lưu Cung | 劉恭 | 188–184 TCN[33] | không có[34] | ||
Hậu Thiếu Đế | 後少帝 | Lưu Hồng | 劉宏 | 184–180 TCN[33] | không có[35] | ||
Văn Đế | 文帝 | Lưu Hằng | 劉恒 | 180–157 TCN[36] | Kiến Nguyên | 前元 | 179–164 TCN[37] |
Hậu Nguyên | 後元 | 163–156 TCN[38] | |||||
Cảnh Đế | 景帝 | Lưu Khải | 劉啓 | 157–141 TCN[36] | Tiền Nguyên | 前元 | 156–150 TCN[39] |
Trung Nguyên | 中元 | 149–143 TCN[40] | |||||
Hậu Nguyên | 後元 | 143–141 TCN[41] | |||||
Vũ Đế | 武帝 | Lưu Triệt | 劉弘 | 141–87 TCN[42][43] | Kiến Nguyên | 建元 | 141–135 TCN[44] |
Nguyên Quang | 元光 | 134–129 TCN[45] | |||||
Nguyên Sóc | 元朔 | 128–123 TCN[46] | |||||
Nguyên Thú | 元獸 | 122–117 TCN[47] | |||||
Nguyên Định | 元鼎 | 116–111 TCN[48] | |||||
Nguyên Phong | 元封 | 110–105 TCN[49] | |||||
Thái Sơ | 太初 | 104–101 TCN[50] | |||||
Thiên Hán | 天漢 | 100–97 TCN[51] | |||||
Thái Thủy | 太始 | 96–93 TCN[52] | |||||
Diên Hòa | 徵和 | 92–89 TCN[53] | |||||
Hậu Nguyên | 後元 | 88–87 TCN[54] | |||||
Chiêu Đế | 昭帝 | Lưu Phất Lăng | 劉伕龍 | 87–74 TCN[55] | Thủy Nguyên | 始元 | 86–80 TCN[56] |
Nguyên Phượng | 元鳳 | 80–75 TCN[57] | |||||
Nguyên Bình | 元平 | 74 TCN[58] | |||||
Xương Ấp Vương | 昌邑王 hoặc 海昏侯 | Lưu Hạ | 劉賀 | 74 TCN[33] | Nguyên Bình | 元平 | 74 TCN[58] |
Tuyên Đế | 宣帝 | Lưu Bệnh Dĩ | 劉病已 | 74–49 TCN[55] | Bản Thủy | 本始 | 73–70 TCN[59] |
Địa Tiết | 地節 | 69–66 TCN[60] | |||||
Nguyên Khang | 元康 | 65–61 TCN[61] | |||||
Thần Tước | 神爵 | 61–58 TCN[62] | |||||
Ngũ Phượng | 五鳳 | 57–54 TCN[63] | |||||
Cam Lộ | 甘露 | 53–50 TCN[64] | |||||
Hoàng Long | 黃龍 | 49 TCN[65] | |||||
Nguyên Đế | 元帝 | Lưu Thích | 劉奭 | 49–33 TCN[66] | Sơ Nguyên | 初元 | 48–44 TCN[67] |
Vĩnh Quang | 永光 | 43–39 TCN[68] | |||||
Kiến Chiêu | 建昭 | 38–34 TCN[69] | |||||
Cánh Ninh | 竟寧 | 33 TCN[70] | |||||
Thành Đế | 成帝 | Lưu Ngao | 劉驁 | 33–7 TCN[66] | Kiến Thủy | 建始 | 32–28 TCN[71] |
Hà Bình | 河平 | 28–25 TCN[72] | |||||
Dương Sóc | 陽朔 | 24–21 TCN[73] | |||||
Hồng Gia | 鴻嘉 | 20–17 TCN[74] | |||||
Vĩnh Thủy | 永始 | 16–13 TCN[75] | |||||
Nguyên Đình | 元延 | 12–9 TCN[76] | |||||
Tuy Hòa | 綏和 | 8–7 TCN[76] | |||||
Ai Đế | 哀帝 | Lưu Hân | 劉欣 | 7–1 TCN[66] | Kiến Bình | 建平 | 6–3 TCN[77] |
Nguyên Thọ | 元壽 | 2–1 TCN[77] | |||||
Bình Đế | 平帝 | Lưu Khản | 劉衎 | 1–6[66] | Nguyên Thủy | 元始 | 1–5[78] |
Nhũ Tử Anh1 | 孺子 | Lưu Anh | 劉嬰 | 6–9[66] | Cử Nhiếp | 居攝 | 6–8[79] |
Sơ Thủy | 初始 | 8–9[80] | |||||
Nhà Tân (9–23 CN) | |||||||
Nhà Tân của Vương Mãng (王莽) | 9–23 CN[81] | Thủy Kiến Quốc | 始建國 | 9–13 CN[82] | |||
Thiên Phượng | 天鳳 | 14–19[83] | |||||
Địa Hoàng | 地皇 | 20–23[84] | |||||
Giai đoạn chuyển giao | |||||||
Canh Thủy Đế | 更始帝 | Lưu Huyền | 劉玄 | 23–25[85] | Canh Thủy | 更始 | 23–25[86] |
Nhà Đông Hán 25–220 | |||||||
Quang Vũ Đế | 光武帝 | Lưu Tú | 劉秀 | 25–57 CN[87][88] | Kiến Vũ | 建武 | 25–56[89] |
Kiến Vũ Trung Nguyên | 建武中元 | 56–57[90] | |||||
Minh Đế | 明帝 | Lưu Dương | 劉陽 | 57–75[91][92] | Vĩnh Bình | 永平 | 57–75[93] |
Chương Đế | 章帝 | Lưu Đát | 劉炟 | 75–88[91][94] | Kiến Sơ | 建初 | 76–84[95] |
Nguyên Hoà | 元和 | 84–87[96] | |||||
Chương Hoà | 章和 | 87–88[97] | |||||
Hán Hòa Đế | 和帝 | Lưu Triệu | 劉肇 | 88–106[98][99] | Vĩnh Nguyên | 永元 | 89–105[100] |
Nguyên Hưng | 元興 | 105[101] | |||||
Thương Đế | 殤帝 | Lưu Long | 劉隆 | 106[98][102] | Duyên Bình | 延平 | 9 tháng năm 106[103] |
An Đế | 安帝 | Lưu Hỗ | 劉祜 | 106–125[98][104] | Vĩnh Sơ | 永初 | 107–113[105] |
Nguyên Sơ | 元初 | 114–120[106] | |||||
Vĩnh Ninh | 永寧 | 120–121[107] | |||||
Kiến Quang | 建光 | 121–122[107] | |||||
Diên Quang | 延光 | 122–125[108] | |||||
Thiếu Đế (Bắc Hương hầu) | 少帝 hoặc 北鄉侯 | Lưu Ý | 劉懿 | 125 [109] | Diên Quang | 延光 | 125[108] |
Thuận Đế | 順帝 | Lưu Bảo | 劉保 | 125–144[110][111] | Vĩnh Kiến | 永建 | 126–132[112] |
Dương Gia | 陽嘉 | 132–135[113] | |||||
Vĩnh Hòa | 永和 | 136–141[114] | |||||
Hán An | 漢安 | 142–144[115] | |||||
Kiến Khang | 建康 | 144[115] | |||||
Xung Đế | 沖帝 | Lưu Bỉnh | 劉炳 | 144–145[110] | Vĩnh Hi | 永熹 | 145[116] |
Chất Đế | 質帝 | Lưu Toản | 劉纘 | 145–146[110] | Bản Sơ | 本初 | 146[116] |
Hoàn Đế | 桓帝 | Lưu Chí | 劉志 | 146–168[110][117] | Kiến Hòa | 建和 | 147–149[118] |
Hòa Bình | 和平 | 150[119] | |||||
Nguyên Gia | 元嘉 | 151–153[119] | |||||
Vĩnh Hưng | 永興 | 153–154[119] | |||||
Vĩnh Thọ | 永壽 | 155–158[120] | |||||
Diên Hi | 延熹 | 158–167[121] | |||||
Vĩnh Khang | 永康 | 167[122] | |||||
Linh Đế | 靈帝 | Lưu Hoằng | 劉宏 | 168–189[123][124] | Kiến Ninh | 建寧 | 168–172[125] |
Hy Bình | 熹平 | 172–178[126] | |||||
Quang Hòa | 光和 | 178–184[127] | |||||
Trung Bình | 中平 | 184–189[128] | |||||
Thiếu Đế (Hoằng Nông vương) | 少帝 hoặc 弘農王 | Lưu Biện | 劉辯 | 189[109] | Quang Hi | 光熹 | 189[129] |
Chiêu Ninh | 昭寧 | 189[129] | |||||
Hiến Đế | 獻帝 | Lưu Hiệp | 劉協 | 189–220[130] | Vĩnh Hán | 永漢 | 189[129] |
Sơ Bình | 初平 | 190–193[131] | |||||
Hưng Bình | 興平 | 194–195[132] | |||||
Kiến An | 建安 | 196–220[133] | |||||
Diên Khang | 延康 | 220[134] | |||||
1 — Nhũ Tử Anh tuy mang danh hoàng tử song chưa từng chính thức xưng Hoàng đế nhà Hán. Trong khoảng thời gian từ năm 6 đến năm 9 CN, ngai vàng nhà Hán thực chất vẫn bỏ trống. |
Phả hệ
sửaDòng thời gian
sửaChú giải:
- Cam vua Tây Hán
- Xanh vua nhà Hán sau sự sụp đổ của nhà Tân nhưng trước nhà Đông Hán
- Hồng vua Đông Hán
Xem thêm
sửaGhi chú
sửa- ^ Trong cách xưng hô với các vị quân chủ phong kiến, thông thường người ta lấy tên triều đại kết hợp với thụy hiệu, chẳng hạn như Hán Vũ Đế, Hán Cảnh Đế. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ như Lưu Cung, Lưu Hồng, Nhũ Tử Anh, Xương Ấp Vương, Bắc Hương Hầu và Hoằng Nông Vương. Các vị vua này hoặc băng hà chỉ trong vòng một năm sau khi lên ngôi, hoặc bị phế truất trong thời gian ngắn, hoặc còn quá nhỏ nên quyền hành rơi vào tay nhiếp chính.
- ^ Những năm theo lịch âm của Trung Quốc không hoàn toàn trùng khớp với các năm trong cột niên hiệu. Có những năm trong bảng vừa thuộc về hai triều đại khác nhau, lại có những niên hiệu được ban hành vào đầu năm tiếp theo.
Chú thích
sửa- ^ Paludan 1998, tr. 34–36.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 568.
- ^ Hymes 2000, tr. 36.
- ^ Beck 1990, tr. 21.
- ^ Beck 1990, tr. 354–55.
- ^ a b Wilkinson (1998), Chinese History: A Manual. Trang 105.
- ^ Trần Liên Sơn (2012), người dịch Ngô Thị Soa, Truyền thuyết thần thoại Trung Quốc. Nhà xuất bản Văn học Bắc Kinh.
- ^ a b Wilkinson (1998), Chinese History: A Manual. Trang 106.
- ^ Wilkinson 1998, tr. 106-107.
- ^ Wilkinson 1998.
- ^ a b c Wilkinson 1998, tr. 177; Sato 1991, tr. 278.
- ^ a b Wilkinson 1998, tr. 177; Sato 1991, tr. 278–279.
- ^ a b Wilkinson 1998, tr. 178.
- ^ Loewe & Twitchett 1986, tr. 135; Hansen 2000, tr. 115–116.
- ^ Loewe & Twitchett 1986, tr. 136–137; Torday 1997, tr. 78.
- ^ Loewe & Twitchett 1986, tr. 174–187; Huang 1988, tr. 44–46.
- ^ a b Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển số 01, Cao Đế bản ký.
- ^ Tư Mã Thiên, Sử ký Tư Mã Thiên. Bản ký Lã Hậu.
- ^ Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển số 04 Văn Đế kỷ.
- ^ Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển số 05 Cảnh Đế kỷ.
- ^ Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển số 07 Vũ Đế kỷ
- ^ Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển số 07 Chiêu Đế kỷ.
- ^ Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển số 08 Tuyên Đế kỷ.
- ^ Ban Cố, Tiền Hán thư. Quyển 99 Vương Mãng truyện.
- ^ Phạm Diệp, Hậu Hán thư. Quyển số 01 Quang Đế.
- ^ Phạm Diệp, Hậu Hán thư. Quyển số 02 Hiển Tổng Minh Đế.
- ^ Phạm Diệp, Hậu Hán thư. Quyển số 03 Túc Tông Chương Đế.
- ^ Phạm Diệp, Hậu Hán thư. Quyển số 04 Hiếu Thương Đế.
- ^ Paludan 1998, tr. 28.
- ^ Loewe 2000, tr. 253–258.
- ^ Paludan 1998, tr. 28, 31.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 441–442.
- ^ a b c Loewe & Twitchett 1986, tr. xxxix.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 442–443.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 443.
- ^ a b Paludan 1998, tr. 28, 33.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 444–446.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 446–447.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 447–448.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 449–452.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 452.
- ^ Paludan 1998, tr. 28, 36.
- ^ Loewe 2000, tr. 273–280.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 452–453.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 454–455.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 456–457.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 457–459.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 459–460.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 460–462.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 463–464.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 467–468.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 468.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 468–470.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 470–471.
- ^ a b Paludan 1998, tr. 40.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 471–472.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 472–473.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 473.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 473–475.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 475.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 476.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 477.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 478–479.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 479–480.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 480.
- ^ a b c d e Paludan 1998, tr. 40–42.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 481–482.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 482–483.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 483–484.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 484.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 485–486.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 486–487.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 487.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 487–488.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 488–489.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 489.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 490.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 495.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 495–496.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 496.
- ^ Paludan 1998, tr. 42–43.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 496–497.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 498–499.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 499–500.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 558–560.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 500–501.
- ^ Paludan 1998, tr. 44.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 557–566.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 501–509.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 509.
- ^ a b Paludan 1998, tr. 44–49.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 604–609.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 509–513.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 495–500.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 514–515.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 515–516.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 516.
- ^ a b c Paludan 1998, tr. 50.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 588–592.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 517–523.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 523.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 531.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 524.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 580–583.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 524–526.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 526–527.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 528.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 529.
- ^ a b Loewe & Twitchett 1986, tr. xl.
- ^ a b c d Paludan 1998, tr. 50–51.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 473–478.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 530–531.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 532.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 532–534.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 534.
- ^ a b Bá Dương 1977, tr. 535.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 595–603.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 535–536.
- ^ a b c Bá Dương 1977, tr. 536.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 536–537.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 537–540.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 541.
- ^ Paludan 1998, tr. 50–52.
- ^ de Crespigny 2006, tr. 511–517.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 541–542.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 542–543.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 543–545.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 545–547.
- ^ a b c Bá Dương 1977, tr. 547.
- ^ Paludan 1998, tr. 50, 55.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 547–550.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 551.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 552–564.
- ^ Bá Dương 1977, tr. 564.
Tham khảo
sửaSách
sửaChữ Hán
sửa- Bá Dương (1977). 中國歷史年表 [Trung Quốc lịch sử niên biểu] (bằng tiếng Trung). Đài Bắc: Nhà xuất bản Tinh Quang.
- Ban Cố, Tiền Hán thư. Ấn bản 2011, The Book of Han (Chinese Edition). Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam. ISBN 7222078622, ISBN 978-7222078628
- Phạm Diệp, Hậu Hán thư. Ấn bản 2012, The Book of the Later Han (12 Volumes) (Chinese Edition). Nhà xuất bản Trung Hoa. ISBN 9787101003062, ISBN 978-7101003062
Tiếng Anh
sửa- Beck, B. J. Mansvelt (1990). The Treatises of Later Han: Their Author, Sources, Contents, and Place in Chinese Historiography [Hậu Hán Thư: Tác Giả, Nguồn Gốc, Nội Dung và Vị Trí Trong Lịch Sử Học Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Brill. ISBN 978-90-04-08895-5.
- Bielenstein, Hans (1980). The Bureaucracy of Han Times [Quan chế thời Hán] (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-22510-6.
- Ch'ü, T'ung-tsu (1972). Han Dynasty China: Volume 1: Han Social Structure [Trung Quốc thời Hán: Tập 1: Cấu trúc xã hội thời Hán] (bằng tiếng Anh). Seattle: University of Washington Press. ISBN 978-0-295-95068-6.
- de Crespigny, Rafe (2006). “Chronology Part II: Later Han”. A Biographical Dictionary of Later Han to the Three Kingdoms (23–220 AD) [Từ điển tiểu sử hậu Hán đến Tam Quốc] (bằng tiếng Anh). Leiden: Brill. ISBN 978-90-04-15605-0.
- Hulsewé, Anthony François Paulus (1995). Remnants of Han Law [Tàn dư của luật Hán]. Sinica Leidensia (bằng tiếng Anh). 9. Brill. tr. 226–230.
- Hansen, Valerie (2000). The Open Empire: A History of China to 1600 [Đế chế mở: Lịch sử Trung Quốc đến năm 1600] (bằng tiếng Anh). W. W. Norton. ISBN 978-0-393-97374-7.
- Huang, Ray (1988). China: A Macro History [Trung Quốc: Lịch sử vĩ mô] (bằng tiếng Anh). Armonk: M. E. Sharpe. ISBN 978-0-87332-452-6.
- Hucker, Charles O. (1975). China's Imperial Past: An Introduction to Chinese History and Culture [Quá khứ phong kiến của Trung Quốc: Giới thiệu lịch sử và văn hóa Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Stanford University Press. ISBN 978-0-8047-0887-6.
- Hymes, Robert (2000). Columbia Chronologies of Asian History and Culture [Niên biểu lịch sử và văn hóa châu Á của ĐH Columbia] (bằng tiếng Anh). Columbia University Press. ISBN 978-0-231-11004-4..
- Loewe, Michael; Twitchett, Denis biên tập (1986). The Cambridge History of China: Volume I: the Ch'in and Han Empires, 221 B.C. – A.D. 220 [Lịch sử Trung Quốc của Cambridge: Tập I: Các đế chế Tần và Hán, 221 TCN – 220 SCN] (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-24327-8.
- Loewe, Michael (2000). A Biographical Dictionary of the Qin, Former Han, and Xin Periods (221 BC – AD 24) [Từ điển tiểu sử các triều đại Tần, Hán Đông và Tân (221 TCN – 24 CN)] (bằng tiếng Anh). Boston: Brill. ISBN 978-90-04-10364-1.
- Paludan, Ann (1998). Chronicle of the Chinese Emperors: the Reign-by-Reign Record of the Rulers of Imperial China [Biên niên sử các hoàng đế Trung Quốc: Hồ sơ từng triều đại của các vị vua trong lịch sử Trung Quốc phong kiến] (bằng tiếng Anh). London: Thames & Hudson. ISBN 978-0-500-05090-3.
- Torday, Laszlo (1997). Mounted Archers: The Beginnings of Central Asian History [Kỵ binh bắn cung: Khởi đầu lịch sử Trung Á] (bằng tiếng Anh). Durham Academic Press. ISBN 978-1-900838-03-0.
- Vervoorn, Aat Emile (1990). “Chronology of Dynasties and Reign Periods”. Men of the Cliffs and Caves [Những người cư trú trên vách đá và trong hang] (bằng tiếng Anh). Chinese University Press. ISBN 978-962-201-415-2.
- de Visser, M. W. (2003). Dragon in China and Japan (bằng tiếng Anh). Kessinger. ISBN 978-0-7661-5839-9.
- Wilkinson, Endymion (1998). Chinese History: A Manual [Cẩm nang lịch sử Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Harvard University Asia Center, Harvard University Press. ISBN 978-0-674-12378-6.
Tạp chí nghiên cứu
sửa- Dubs, Homer H. (1945). “Chinese Imperial Designations” [Các danh xưng Hoàng đế Trung Quốc]. Journal of the American Oriental Society (bằng tiếng Anh). 65 (1): 26–33. doi:10.2307/594743. JSTOR 594743.
- Dubs, Homer H. (1945). “Chinese Imperial Designations” [Các danh xưng Hoàng đế Trung Quốc]. Journal of the American Oriental Society (bằng tiếng Anh). 65 (1): 26–33. JSTOR 594743.
- Sato, Masayuki (1991). “Comparative Ideas of Chronology”. History and Theory (bằng tiếng Anh). 30 (2): 275–301. JSTOR 2505559.
- Wang, Yu-ch'uan (1949). “An Outline of the Central Government of the Former Han Dynasty”. Harvard Journal of Asiatic Studies (bằng tiếng Anh). 12 (1/2): 134–187. JSTOR 2718206.
Liên kết ngoài
sửa- Lịch sử Trung Quốc - Triều Hán 漢 (206 TCN - 8 CN, 25 - 220)
- Tư liệu liên quan tới Nhà Hán tại Wikimedia Commons