Chris Hipkins
Christopher John Hipkins (sinh ngày 5 tháng 9 năm 1978) là một chính trị gia thuộc Đảng Lao động, ông kế nhiệm Jacinda Ardern giữ chức Thủ tướng New Zealand vào ngày 7 tháng 2 năm 2023.[6] Ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Bộ trưởng Bộ Cảnh sát, Bộ trưởng Bộ Công vụ và Lãnh đạo Hạ viện. Ông từng là nghị sĩ của Remutaka kể từ cuộc bầu cử năm 2008. Ông trở thành nhân vật nổi bật của chiến dịch chống đại dịch COVID-19 tại New Zealand, giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2020 và Bộ trưởng Ứng phó với COVID-19 từ tháng 11 năm 2020 đến tháng 6 năm 2022.
Chris Hipkins | |
---|---|
Hipkins năm 2022 | |
Thủ tướng New Zealand | |
Nhiệm kỳ 25 tháng 1 năm 2023[1] – 27 tháng 11 năm 2023 | |
Quân chủ | Charles III |
Cấp phó | Carmel Sepuloni |
Toàn quyền | Cindy Kiro |
Tiền nhiệm | Jacinda Ardern |
Kế nhiệm | Christopher Luxon |
Lãnh đạo Đảng Lao động | |
Nhậm chức 22 tháng 1 năm 2023 | |
Cấp phó | Kelvin Davis |
Tiền nhiệm | Jacinda Ardern |
Bộ trưởng Bộ Giáo dục | |
Nhậm chức 26 tháng 10 năm 2017 | |
Thủ tướng | Jacinda Ardern |
Tiền nhiệm | Nikki Kaye |
Bộ trưởng Bộ Dịch vụ Công cộng | |
Nhậm chức 26 tháng 10 năm 2017 | |
Thủ tướng | Jacinda Ardern |
Tiền nhiệm | Paula Bennett |
Bộ trưởng Bộ Cảnh sát | |
Nhậm chức 14 tháng 6 năm 2022 | |
Thủ tướng | Jacinda Ardern |
Tiền nhiệm | Poto Williams |
Bộ trưởng Ứng phó COVID-19 | |
Nhiệm kỳ 6 tháng 11 năm 2020 – 14 tháng 6 năm 2022 | |
Thủ tướng | Jacinda Ardern |
Tiền nhiệm | Chức vụ thiết lập |
Kế nhiệm | Ayesha Verrall |
Bộ trưởng Bộ Y tế | |
Nhiệm kỳ 2 tháng 7 năm 2020 – 6 tháng 11 năm 2020 | |
Thủ tướng | Jacinda Ardern |
Tiền nhiệm | David Clark |
Kế nhiệm | Andrew Little |
Lãnh đạo Hạ viện | |
Nhậm chức 26 tháng 10 năm 2017 | |
Thủ tướng | Jacinda Ardern |
Tiền nhiệm | Simon Bridges |
Nghị sĩ Quốc hội New Zealand cho Remutaka Rimutaka (2008–2020) | |
Nhậm chức 8 tháng 11 năm 2008 | |
Tiền nhiệm | Paul Swain |
Số phiếu | 20,497 |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 5 tháng 9, 1978 [2][3] Hutt Valley, New Zealand[4] |
Đảng chính trị | Lao động (từ 1996) |
Con cái | 2 |
Cư trú | Upper Hutt, New Zealand |
Alma mater | Đại học Victoria Wellington |
Website | Hipkins' Facebook page |
Biệt danh | Chippy[5] |
Vào ngày 21 tháng 1 năm 2023, Hipkins trở thành ứng cử viên duy nhất kế nhiệm Jacinda Ardern với tư cách là lãnh đạo Đảng Lao động. Ông trở thành Thủ tướng thứ 41 của New Zealand vào ngày 7 tháng 2 năm 2023.[7]
Tham khảo
sửa- ^ McClure, Tess (22 tháng 1 năm 2023). “New Zealand: Chris Hipkins taking over from Jacinda Ardern on Wednesday”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
- ^ “Hon Chris Hipkins”. New Zealand Government. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.
- ^ Young, Audrey (1 tháng 9 năm 2018). “Education Minister Chris Hipkins plans to take parental leave from Beehive for baby No. 2”. The New Zealand Herald. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Chris Hipkins: From Head Boy to Prime Minister”. Radio New Zealand. 21 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023.
- ^ McClure, Tess (24 tháng 9 năm 2021). “'People are tired': Chris Hipkins, the New Zealand minister battling to eliminate Covid”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
- ^ “Hipkins Named to Succeed Ardern as New Zealand Prime Minister”. Bloomberg.com. 20 tháng 1 năm 2023.
- ^ Craymer, Lucy (21 tháng 1 năm 2023). “New Zealand Labour Party: Chris Hipkins sole candidate to replace Jacinda Ardern as leader”. Reuters. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023 – qua Reuters.