Chó sói núi Bắc Rockey
Bài viết này là một bài mồ côi vì không có bài viết khác liên kết đến nó. Vui lòng tạo liên kết đến bài này từ các bài viết liên quan; có thể thử dùng công cụ tìm liên kết. (tháng 8 2020) |
Sói núi Bắc Rocky (Canis lupus irremotus) là một phân loài của sói xám sinh sống ở phía bắc dãy núi Rocky. Loài sói này có bộ lông sáng màu, kích thước từ trung bình đến khá lớn, có xương trán hẹp và dẹt.[2] Vào ngày 9 tháng 3 năm 1978, phân loài này được đưa vào nhóm các loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng sau đó tuyên bố này đã bị bác bỏ vào năm 2000 do sự tác động của Kế hoạch phục hồi sói núi Bắc Rockey.[3][4]
Sói núi Bắc Rocky | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Carnivora |
Họ (familia) | Canidae |
Chi (genus) | Canis |
Loài (species) | C. lupus |
Phân loài (subspecies) | C. l. irremotus |
Danh pháp ba phần | |
Canis lupus irremotus Goldman, 1937[1] |
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2010, loài sói núi Bắc Rocky bị tuyên bố buộc phải quay trở lại dưới sự bảo vệ của Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng của Thẩm phán địa phương Donald Molloy trong một quyết định đảo ngược phán quyết trước đây của Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ.[5] Tuy vậy, phân loài này đã bị đưa ra khỏi danh sách các phân loài có nguy cơ tuyệt chủng vào ngày 31 tháng 8 năm 2012 vì các bang Idaho, Montana và Utah có đủ số lượng sói sinh sống tối thiểu so với tiêu chuẩn đánh giá các phân loài được coi là ổn định.[6] Loài sói này được công nhận là một phân loài của Canis lupus bởi cơ quan phân loại các loài động vật có vú trên thế giới (2005).[7]
Sói núi Bắc Rocky thường nặng từ 32 đến 68 kg và chiều cao khi đứng ước tính khoảng từ 66 đến 81 cm. Các thông số về cân nặng và chiều cao trên biến loài sói này trở thành một trong những phân loài có kích thước lớn nhất của sói xám.[8] Chó sói núi Bắc Rockey là một loài động vật có bộ lông nhạt màu sống trên dãy núi Rocky. Bộ lông của loài sói này có nhiều màu sắc, trong đó tỷ lệ màu trắng nhiều hơn màu đen. Bộ lông của loài sói này thường là màu đen phối với các màu nhạt khác.[1][9]
Tham khảo
sửa- ^ a b E. A. Goldman (1937). “The Wolves of North America”. Journal of Mammalogy. 18 (1): 37–45. doi:10.2307/1374306. JSTOR 1374306.
- ^ Glover, A. (1942), Extinct and vanishing mammals of the western hemisphere, with the marine species of all the oceans, American Committee for International Wild Life Protection, pp. 205-206.
- ^ Elizabeth Cowan Brown (2000). “The "wholly separate" truth: did the Yellowstone wolf reintroduction violate Section 10(J) of the Endangered Species Act?”. Boston College Environmental Affairs Law Review. Boston College. 27 (3): 425–465. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2019.
- ^ Wyoming Farm Bureau Federation v. Babbitt, 97-8127 Patrick Fisher (United States Court of Appeals, Tenth Circuit ngày 13 tháng 1 năm 2000).
- ^ Matt Volz (ngày 6 tháng 8 năm 2010). “Wildlife advocates hail Rocky Mountain wolf ruling”. Associated Press.[liên kết hỏng]
- ^ Patrik Jonsson (ngày 1 tháng 9 năm 2012). “Open season: Will rebounding Wyoming wolves thrive without US protection?”. The Christian Science Monitor. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
- ^ Wozencraft, W. C. (2005). “Order Carnivora”. Trong Wilson, D. E.; Reeder, D. M. (biên tập). Mammal Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference . Johns Hopkins University Press. tr. 575–577. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494. url=https://books.google.com/books?id=JgAMbNSt8ikC&pg=PA576
- ^ Nelson King (2007). “Wolves in Yellowstone: A Short History”. Yellowstone Insider.
- ^ B. J. Verts & Leslie N. Carraway (1998). “Canis lupus Linnaeus, 1758”. Land Mammals of Oregon. University of California Press. tr. 360–363. ISBN 978-0-520-21199-5.