Bong Joon-ho

nhà làm phim người Hàn Quốc
(Đổi hướng từ Bong Joon Ho)
Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Bong.

Bong Joon-ho (Tiếng Hàn봉준호, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1969) là một nam nhà làm phim người Hàn Quốc. Là chủ nhân của bốn tượng vàng của giải Oscar, các tác phẩm của ông có đặc điểm chung là nhấn mạnh vào các chủ đề xã hội và giai cấp, cùng với đó là sự pha trộn giữa các thể loại, yếu tố hài châm biếm tinh tế và sự thay đổi tâm trạng một cách đột ngột, bất ngờ và khó đoán.[1]

Bong Joon-ho
Bong Joon-ho vào năm 2017
Sinh14 tháng 9, 1969 (55 tuổi)
Daegu, Hàn Quốc
Quốc tịch Hàn Quốc
Trường lớpĐại học Yonsei
Nghề nghiệp
Năm hoạt động1994 – nay
Tác phẩm nổi bậtDanh sách
Phối ngẫu
Jung Sun-young (cưới 1996)
Con cái1
Danh hiệu
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữBong Junho
McCune–ReischauerPong Chunho
Hán-ViệtPhụng Tuấn Hạo

Bong Joon-ho lần đầu được công chúng biết đến qua tác phẩm đầu tay Barking Dogs Never Bite (2000), trước khi ông được nhận sự tán dương nhiệt liệt từ giới chuyên môn cũng như các khán giả thông qua các tác phẩm Hồi ức kẻ sát nhân (2003), Quái vật sông Hàn (2006), Người mẹ (2009), Chuyến tàu băng giá (2013) và Ký sinh trùng (2019). Các tác phẩm kể trên đều nằm trong số những bộ phim có doanh thu cao nhất ở Hàn Quốc, trong đó Ký sinh trùng cũng là phim điện ảnh Hàn Quốc có doanh thu cao nhất trong lịch sử.[2]

Hai tác phẩm Siêu lợn Okja (2017) và Ký sinh trùng (2019) của ông được trình chiếu tại liên hoan phim Cannes, trong đó Ký sinh trùng chính thức nhận giải Cành cọ vàng, trở thành bộ phim Hàn Quốc đầu tiên trong lịch sử làm được điều này.[3][4] Ngoài ra, Ký sinh trùng còn trở thành tác phẩm điện ảnh Hàn Quốc đầu tiên được đề cử các hạng mục tại giải Oscar, với cá nhân Bong giành các giải Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, và Kịch bản gốc xuất sắc nhất, trở thành bộ phim nước ngoài không nói tiếng Anh đầu tiên trong lịch sử giành được hạng mục Phim hay nhất.[5][6] Với những đóng góp không ngừng nghỉ trong nền điện ảnh, Bong được chuyên trang Metacritic liệt vào danh sách 25 vị đạo diễn hay nhất thế kỉ 21 vào năm 2017,[7] và đến năm 2020, ông được tạp chí Time xếp vào 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất[8] và 50 nhân vật có ảnh hưởng nhất theo tờ Bloomberg.[9]

Sự nghiệp

sửa

Khởi đầu sự nghiệp từ khi còn rất trẻ và sớm gặt hát được nhiều thành công, những bộ phim đáng chú ý nhất của ông bao gồm: Quái vật sông Hàn (2006), phim hành động khoa học viễn tưởng Snowpiercer (2013) và phim hài kịch đen Ký sinh trùng (2019), cả ba đều là những phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại ở Hàn Quốc.[10] Bên cạnh đó, bản thân vị đạo diễn cũng đã có hơn hai thập niên khẳng định mình với nhiều tác phẩm điện ảnh xuất sắc khác, ngoài những cái tên nói trên, còn có thể kể đến như: Barking Dogs Never Bite (2000), Hồi ức của kẻ sát nhân (2003) hay Mother (2009).[11] Ông có hai bộ phim tham gia cạnh tranh giải thưởng tại Liên hoan phim Cannes, lần lượt là: Okja- ra mắt tại Cannes 2017, và Parasite (2019) - tác phẩm chiến thắng giải Cành cọ vàng tại Cannes 2019.[12][13] Bong Joon-ho cũng là đạo diễn đầu tiên của Hàn Quốc giành được giải thưởng này.[14]

Vào tháng 2 năm 2020, ông đoạt giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất với Parasite và đồng thời trở thành đạo diễn người Hàn Quốc đầu tiên cũng như đạo diễn người châu Á thứ tư (sau Lý An của Đài Loan, Triệu Đình của Trung Quốc và Lee Isaac Chung của Hàn Quốc) có vinh dự được nhận giải thưởng danh giá này.[15]

Trước đó, năm 2017, trang web Metacritic xếp hạng Bong đứng thứ 13 trong Danh sách 25 đạo diễn điện ảnh hay nhất của thế kỷ 21.[16]

Tháng 9 năm 2020, Bong được tạp chí Time vinh danh trong Danh sách 100 người có ảnh hưởng lớn nhất thế giới năm 2020.[17][18]

Tháng 1 năm 2021, Bong được mời làm giám khảo cho Liên hoan phim Venice lần thứ 78, ông là đạo diễn người Hàn Quốc đầu tiên có được vinh dự này.[19]

Danh sách phim

sửa

Điện ảnh

sửa
Năm Phim Vai trò
Đạo diễn Biên kịch Sản xuất
1997 Motel Cactus Không Không
1999 Phantom: The Submarine Không Không
2000 Barking Dogs Never Bite Không
2003 Hồi ức của kẻ sát nhân Không
2005 Antarctic Journal Không Không
2006 Quái vật sông Hàn Không
2009 Người mẹ Không
2013 Chuyến tàu băng giá Không
2014 Biển sương mù Không
2017 Siêu lợn Okja
2019 Ký sinh trùng
2024 Mickey 17

Truyền hình

sửa
Năm Tên Sản xuất Notes
2020 Snowpiercer sản xuất điều hành
TBA Parasite sản xuất điều hành;
Tập phim ngắn

Phim ngắn

sửa
Năm Phim Phân đoạn Vai trò
Đạo diễn Biên kịch
1994 Baeksaekin (White Man)
Incoherence
The Memories in My Frame
2003 Twentidentity Sink & Rise
2004 Digital Short Films by Three Directors Influenza
2008 Tokyo! Shaking Tokyo
2011 3.11 A Sense of Home Iki

Diễn xuất

sửa
Năm Phim Vai diễn
1994 Incoherence Người giao hàng
2002 No Blood No Tears Thám tử (khách mời)
2008 Crush and Blush Giáo viên (khách mời)
2012 Doomsday Book Lee Jun-ho (khách mời)

Phim tài liệu

sửa
Năm Phim
2006 Two or Three Things I Know about Kim Ki-young
2011 Kurosawa's Way
2012 Ari Ari the Korean Cinema

Nguồn phim: Korean Movie Database[20]

Giải thưởng

sửa

Giải Oscar lần thứ 92 cho Đạo diễn xuất sắc nhất.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Paquet, Darcy (28 tháng 2 năm 2008). “The Bong Joon Ho Page”. Koreanfilm.org. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  2. ^ “Box Office: All Time”. Korean Film Council. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2018.
  3. ^ Debruge, Peter (25 tháng 5 năm 2019). “Bong Joon-ho's 'Parasite' Wins the Palme d'Or at Cannes”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2019.
  4. ^ Pulver, Andrew (25 tháng 5 năm 2019). “Bong Joon-ho's Parasite wins Palme d'Or at Cannes film festival”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  5. ^ Ordona, Michael (10 tháng 2 năm 2020). “Why Bong Joon Ho actually won three Oscars this year, not four”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020.
  6. ^ Buchanan, Kyle; Barnes, Brooks (9 tháng 2 năm 2020). 'Parasite' Earns Best-Picture Oscar, First for a Movie Not in English”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020.
  7. ^ Dietz, Jason (19 tháng 7 năm 2017). “25 Best Film Directors of the 21st Century (So Far): Bong Joon-ho”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2018.
  8. ^ “Time 100 Most Influential People: 2020”. Time. 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2020.
  9. ^ “The Bloomberg 50”. Bloomberg (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2020.
  10. ^ “Box Office: All Time”. Korean Film Council. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2018.
  11. ^ “Bảy phim làm nên tên tuổi Bong Joon Ho”. Báo điện tử VnExpress. 14 tháng 2 năm 2020.
  12. ^ Debruge, Peter; Debruge, Peter (ngày 25 tháng 5 năm 2019). “Bong Joon-ho's 'Parasite' Wins the Palme d'Or at Cannes”.
  13. ^ Lawson, Richard (ngày 21 tháng 5 năm 2019). “Parasite and Portrait of a Lady on Fire Burn Up Cannes”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2019.
  14. ^ Pulver, Andrew (ngày 25 tháng 5 năm 2019). “Bong Joon-ho's Parasite wins Palme d'Or at Cannes film festival”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  15. ^ Andrew Pulver (10 tháng 2 năm 2020). “Bong Joon-ho wins the best director Oscar for Parasite”. www.theguardian.com.
  16. ^ Dietz, Jason (ngày 19 tháng 7 năm 2017). “25 Best Film Directors of the 21st Century (So Far): Bong Joon-ho”. Metacritic. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2018.
  17. ^ Swinton, Tilda (22 tháng 9 năm 2020). “The 100 Most Influential People of 2020: Bong Joon-ho”. time.com.
  18. ^ Đạt Phan (theo Time) (23 tháng 9 năm 2020). “Đạo diễn 'Parasite' vào top 100 người ảnh hưởng nhất thế giới”. Báo điện tử VnExpress.
  19. ^ Đạt Phan (theo LA Times) (16 tháng 1 năm 2021). “Bong Joon Ho là trưởng ban giám khảo LHP Venice”. Báo điện tử VnExpress.
  20. ^ “봉준호 필모그래피” [Bong Joon-ho Filmography] (bằng tiếng Hàn). Korean Movie Database. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2018.

Liên kết ngoài

sửa