Bãi Huyền Trân hay bãi cạn Huyền Trân, bãi ngầm Huyền Trân (tiếng Anh: Alexandra Bank; tiếng Trung: 人骏滩; bính âm: Rénjùn tān, Hán-Việt: Nhân Tuấn than) là một rạn san hô ở phía nam Biển Đông. Việt Nam cho xây dựng tại đây cấu trúc thép có tên là nhà giàn DK1 và giao cho Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát, đồng thời duy trì một trạm khí tượng và một hải đăng.

Thực thể địa lý tranh chấp
Bãi Huyền Trân
Ảnh vệ tinh chụp bãi Huyền Trân (tháng 5, 2022)
Địa lý
Vị tríBiển Đông
Tọa độ8°01′13″B 110°37′51″Đ / 8,02028°B 110,63083°Đ / 8.02028; 110.63083 (bãi Huyền Trân)
Điểm cao nhất-5.3 m
Quản lý
Quốc gia quản lý Việt Nam
TỉnhBà Rịa – Vũng Tàu
Tranh chấp giữa
Quốc gia Trung Quốc

Quốc gia

 Đài Loan

Quốc gia

 Việt Nam
Hải đăng Huyền Trân
Hải đăng Huyền Trân trên bản đồ Biển Đông
Hải đăng Huyền Trân
Hải đăng Huyền Trân
Tọa độ 8°01′13″B 110°37′51″Đ / 8,02028°B 110,63083°Đ / 8.02028; 110.63083 (Hải đăng Huyền Trân)
Năm khởi xây Trước 1994 (1994)
Chiều cao công trình (tính đến đế) 23,4m
Nguồn sáng Đèn chính: VMS-S ML400
Tầm chiếu sáng Ngày: 10 hải lý
Đêm: 12 hải lý
Đặc tính ánh sáng Fl(2+1) W 10s
Số Admiralty F2825.196[1]
Số NGA 20290.4[1]
Số ARLHS SPR-001[1]

Việt Nam tuyên bố bãi Huyền Trân nằm trên thềm lục địa phía nam, không thuộc quần đảo Trường Sa và bác bỏ sự gán ghép bãi này vào quần đảo Trường Sa. Đài LoanTrung Quốc quan niệm bãi này thuộc quần đảo Nam Sa.

Địa lý

sửa

Bãi Huyền Trân là rạn san hô, nằm cách Vũng Tàu 248 hải lý[2] về phía đông nam, cách bãi Quế Đường 11 hải lý về phía đông bắc và chỉ cách bãi Phúc Tần 3,5 hải lý về phía đông nam.[3] Rạn dài 8 km theo trục bắc nam và rộng 5,5 km theo trục tây-đông. Tổng diện tích 32,61 km², trong đó vụng biển chiếm 18,02 km². Phần vành đai sâu 6-8m, nở rộng đến 0,8–1 km ở phần bắc, đông bắc, đông và đông nam. Phần vụng biển sâu hơn 10m, tối đa chỉ 20m.[3] Nơi nông nhất của bãi Huyền Trân có độ sâu 5,3m.[4]

Hoạt động của con người

sửa
Nhà giàn

Về mặt hành chính, bãi Huyền Trân thuộc phạm vi quản hạt của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.[5] Tại đây người ta dựng lên cấu trúc thép gọi là nhà giàn DK1, số hiệu DK1/7, hoàn thành lần đầu ngày 11 tháng 11 năm 1991. Năm 2014, nhà giàn Huyền Trân được xây dựng lại kiên cố hơn, gồm có hai cấu trúc nhà giàn nối với nhau, được cho là chịu được bãosức gió trên cấp 12. Nhà giàn cao khoảng 15m nếu tính từ mặt biển tới sân thượng.[6] Binh sĩ đồn trú thuộc biên chế Tiểu đoàn DK1, lúc đầu thuộc Lữ đoàn 171 Hải quân Nhân dân Việt Nam, về sau trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân.[7] Họ trồng được rau xanh và nuôi được gia súc, gia cầm để đáp ứng nhu cầu thực phẩm.[2]

Trạm khí tượng

Trên nhà giàn Huyền Trân có đặt một trạm quan trắc khí tượng cấp 1, tiêu chuẩn phát báo quốc tế. Theo Danh sách đính kèm Nghị định số 24/CP ngày 19 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình khí tượng thủy văn, trạm Huyền Trân là công trình khí tượng thủy văn loại đặc biệt, nghĩa là có tầm quan trọng đặc biệt về chuyên môn kỹ thuật khí tượng thủy văn và trao đổi thông tin quốc tế,... hoặc có ý nghĩa quan trọng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh quốc gia.[8] Nhân sự gồm có hai quan trắc viên, mỗi ngày thực hiện quan trắc - phát báo 4 lần (4 obs), tăng tần suất khi có mưa bão, biển động; tần suất thu thập số liệu là nửa giờ một lần.[6]

Hải đăng

Hải đăng Huyền Trân được hoàn thành trước năm 1994, chiều cao tháp đèn 23,4m, có tầm hiệu lực ban ngày là 10 hải lý, ban đêm là 12 hải lý. Ánh sáng trắng, chớp nhóm 2+1, chu kỳ 10 giây.[9]

Các yêu sách

sửa
Việt Nam

Việt Nam cho rằng, căn cứ Điều 60 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa, Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS 1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía nam nước này [trong đó có bãi Huyền Trân] thành đảo nổi và không gán ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán ghép này.[10]

Trung Quốc

Năm 1935, Trung Hoa Dân quốc xuất bản "Biểu đối chiếu tên gọi Hoa-Anh các đảo thuộc Nam Hải Trung Quốc", trong đó phiên âm tên tiếng Anh Alexandra Bank sang tiếng Trung là 埃勒生達灘 (bãi Ai Lặc Sinh Đạt). Năm 1947, Bộ Nội vụ Trung Hoa Dân quốc đổi tên tiếng Trung của bãi này thành 人駿灘 (bãi Nhân Tuấn). Tên gọi Nhân Tuấn được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tiếp tục công nhận và sử dụng từ năm 1983. Trung Quốc xem bãi Huyền Trân là một phần của quần đảo Nam Sa, đồng thời xem quần đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ bất khả phân của Trung Quốc.[11][12]

Công pháp quốc tế

sửa
  • Khác với đảo, thực thể chìm ngập dưới biển không phải là đối tượng để các quốc gia tuyên bố chủ quyền một cách riêng rẽ, trừ khi chứng minh được chúng nằm trong vùng nước lịch sử hoặc nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của thực thể khác.[13][14][15]
  • Thềm lục địa không phải là bộ phận của lãnh thổ quốc gia, nói cách khác quốc gia ven biển không có chủ quyền đối với thềm lục địa.[16] Theo Điều 77 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Việc quốc gia ven biển thực thi quyền chủ quyền không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được UNCLOS thừa nhận. Theo Điều 79 UNCLOS 1982, các quốc gia khác có quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa nhưng cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.[17]

Tham khảo

sửa
  1. ^ a b c Rowlett, Russ. “Lighthouses of the Spratly Islands” (bằng tiếng Anh). The Public's Library and Digital Archive. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ a b Nông, Đình Quang (ngày 13 tháng 6 năm 2018). “Chiến sĩ Nhà giàn DK1/7: Vững vàng giữa biển khơi”. baolangson.vn. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.
  3. ^ a b “Alexandra Bank” (PDF) (bằng tiếng Anh). Trung tâm Luật quốc tế, Đại học Quốc gia Singapore. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2018.
  4. ^ Pub. 161 Sailing Directions (Enroute) - South China Sea and the Gulf of Thailand (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 16). Springfield, Virginia: National Geospatial-Intelligence Agency. 2017. tr. 19.
  5. ^ TTXVN (ngày 2 tháng 5 năm 2011). “Bà Rịa – Vũng Tàu: Bầu cử sớm tại Nhà trạm GK1/2”. Đại biểu Nhân dân. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.
  6. ^ a b “Nhà giàn DK1/7 và chuyện về những người cán bộ hải văn”. Trang thông tin điện tử về Biên giới lãnh thổ. ngày 29 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.[liên kết hỏng]
  7. ^ Tuấn Cường (ngày 4 tháng 7 năm 2014). “Chuyện những cột mốc chủ quyền trên biển”. Tiền Phong Online. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2018.
  8. ^ “Nghị định số 24/CP ngày 19 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình khí tượng thủy văn”. Cơ sở dữ liệu văn bản pháp luật trung ương. ngày 19 tháng 3 năm 1997. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.
  9. ^ “Hải đăng Huyền Trân”. Trang thông tin điện tử Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam [Việt Nam]. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.
  10. ^ Ban Tuyên giáo Trung ương [Việt Nam] (2013). 100 câu hỏi-đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông. tr. 141–43. ISBN 978-6048001506.
  11. ^ “南海诸岛中外地名对照表” (bằng tiếng Trung). 海南史志网. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.[liên kết hỏng]
  12. ^ “第二节西、南、中沙群岛岛礁” (bằng tiếng Trung). 海南史志网. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.
  13. ^ Hong, Seoung-Yong; Van Dyke, Jon M. (2009). Maritime Boundary Disputes, Settlement Processes, and the Law of the Sea (Publications on Ocean Development) (bằng tiếng Anh). Brill. tr. 149. ISBN 978-9004173439.
  14. ^ Poling, Gregory (5 tháng 7 năm 2012). “Time to End Strategic Ambiguity in the South China Sea” (bằng tiếng Anh). Center for Strategic and International Studies. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  15. ^ Zou, Keyuan (2013). Law of the Sea in East Asia: Issues and Prospects. Routledge Studies in International Law (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 51. ISBN 978-1134267651.
  16. ^ Roy, Dennis (2012). “The Legal Continental Shelf: The Surprising Canadian Practice Regarding Oil and Gas Development in the Atlantic Coast Continental Shelf”. Alberta Law Review (bằng tiếng Anh). 50 (1): 65–93.
  17. ^ “Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (bản dịch tiếng Việt)” (PDF). Cổng thông tin điện tử Tổng cục Môi trường [Việt Nam]. ngày 1 tháng 10 năm 2009. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.