Câu lạc bộ bóng đá Al Qadsiah (tiếng Ả Rập: نادي القادسية لكرة القدم‎, chuyển tự nādī al-Qādisiyyah li-kūrāt ae-qādam), hay còn được biết đến với các tên gọi Al Qadsiah FC hoặc Al-Qadisiya, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Ả Rập Xê Út thi đấu tại Giải bóng đá chuyên nghiệp Ả Rập Xê Út. Đội bóng có trụ sở tại thành phố Khobar, tỉnh Đông, và sân nhà của đội là Sân vận động hoàng tử Saud bin Jalawi. Al Qadsiah FC là một trong những câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất ở tỉnh ĐôngẢ Rập Xê Út.

Al Qadsiah FC
Logo chính thức của câu lạc bộ bóng đá Al Qadsiah (Al Qadsiah FC)
Tên đầy đủAl-Qadsiah Saudi Football Club
Biệt danhFares Al Sharqiya (Hiệp sĩ phương Đông)
Fakhr Al Sharqiya (Niềm tự hào vùng Đông)
Thành lập1967
Sân vận độngSân vận động hoàng tử Saud bin Jalawi
Khobar, Ả Rập Xê Út
Chủ sở hữuSaudi Aramco
Chủ tịch điều hànhJames Bisgrove (Tổng giám đốc điều hành)
Hossamedin Bedier (Trưởng phòng các hoạt động thể thao)
Huấn luyện viênMíchel
Giải đấuSaudi Pro League
2023–24FDL, thứ 1 trên 18 (thăng hạng)
Trang webTrang web của câu lạc bộ
Mùa giải hiện nay

Tên gọi

sửa

Câu lạc bộ bóng đá Al Qadsiah được đặt tên theo trận Al-Qadisiyah, một trận chiến giữa quân đội Ả Rập Hồi giáo do Sa`d ibn Abī Waqqās của nhà Rashidun chỉ huy và quân đội Đế quốc Sasan Ba Tư do Rostam Farrokhzād chỉ huy vào ngày 2 của tháng Muharram, tháng đầu tiên của lịch Hồi giáo, vào năm 636 sau Công nguyên ở Iraq ngày nay.

Lịch sử

sửa

Thời kỳ đầu

sửa

Lịch sử của câu lạc bộ bắt nguồn từ sự khởi đầu của bóng đá ở tỉnh Đông vào năm 1935, khi các câu lạc bộ được thành lập bởi các công nhân và nhân viên của Aramco từ người dân Al-Khobar. Al-Qadsiah được hợp nhất bởi các câu lạc bộ Al-Khobar cũ.

Phong trào thể thao ở thành phố Al-Khobar bắt đầu từ năm 1935 khi câu lạc bộ bóng đá đầu tiên của thành phố Al-Khobar với tên gọi là Al Ahli Saudi FC được thành lập bởi một số thanh niên đến từ Al-Khobar lúc đó đang làm việc tại Aramco. 8 năm sau, vào năm 1943, đội bóng Al Hilal đã được thành lập. Trong suốt thời gian đó, số thành viên của đội Al-Hilal tăng lên khiến một câu lạc bộ bóng đá khác được thành lập với tên gọi Al-Nahda vào năm 1946. Kể từ đó, cuộc cạnh tranh danh dự giữa Al Hilal và Al Nahda được khơi mào khiến bóng đá trở nên phổ biến và nổi tiếng hơn ở Ả Rập Xê Út. Sau đó, đội Al-Nahda được đổi tên thành đội Al-Ittihad, và sau đó, các đội bóng khác như Al-Shabab, Al Ahly, Al Najah, Al Sharar và Al Nahda. Các đội này tiếp tục hoạt động thể thao trong khoảng mười năm trước khi được sáp nhập thành hai đội, cụ thể là câu lạc bộ bóng đá Al-Shoolacâu lạc bộ bóng đá Al Wahda tại Al-Khobar.

Sau khi Tổng cục Phúc lợi Thanh niên được thành lập bởi Bộ Thể thao vào năm 1967, các lệnh chính thức đã được ban hành để thành lập câu lạc bộ Al Qadsiah FC thông qua sự sáp nhập các câu lạc bộ Al ShoolaAl Wahda.

Thời kỳ hoàng kim

sửa

Al Qadsiah FC trải qua thời kỳ hoàng kim vào những năm 1980 khi câu lạc bộ được gọi là "đội bóng của những ngôi sao" nhờ sự góp mặt của những cầu thủ đáng chú ý như Saud Jassim, Wajdi Mubarak, Mohammed Al-Farhan, Khalid Al-Dawsari, Ahmed Al-Bishi, Farid Al-Muaidi và những ngôi sao khác. Mặc dù đội không giành được bất kỳ danh hiệu nào, nhưng đội đã giành được vị trí thứ ba trong giải VĐQG năm 1981 và lọt vào bán kết Cúp Nhà vua hai lần. Hơn nữa, các ngôi sao sáng khác, đáng chú ý nhất là Saud Jassem, người ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Ả Rập Xê Út trong vòng loại World Cup, Ahmed Al-Bishi, Khalid Al-Dawsari, Hamad Al-Dawsari, Wajdi Mubarak, Mohammed Al-Farhan, Raouf al-Saghir, Abd al-Rahman Burshid, Luai al-Subaie, Saleh al-Qunbar, Walid al-BazAbdullah Sherida, đã đóng góp cho câu lạc bộ.

Thời kỳ suy thoái

sửa

Al-Qadisiyah bắt đầu sa sút tại giải đấu do thiếu cầu thủ thay thế cho các cầu thủ đã ra đi. Vào mùa giải 2006, ​​cuộc bầu cử chủ tịch giữa Jassim Al-Yaqout và Ali Badghish được tổ chức và những kết quả này khiến câu lạc bộ Al-Qadisiyah bị chia rẽ nội bộ và thiếu sự đồng thuận, điều mà gây ảnh hưởng đến đội bóng.

Al-Qadisiyah đã may mắn không phải xuống hạng vào năm 2007 nhưng đã xuống hạng vào năm 2008 sau khi một nửa đội hình bán cốt lõi phải bị rút khỏi danh sách và Liên đoàn bóng đá Ả Rập Xê Út không hoãn bất kỳ trận đấu nào của Al-Qadisiya. Những điều này khiến câu lạc bộ mất nhiều điểm ở những ngày thi đấu đầu tiên. Trong thời gian tiếp theo, ban quản lý câu lạc bộ đã phải từ chức dưới áp lực lớn từ người dân Khobar.

Thời kỳ hiện nay

sửa

Vào mùa hè năm 2023, Bộ Thể thao thông báo rằng Al Qadsiah sẽ trở thành công ty được đồng sở hữu bởi Saudi Aramco cùng với 7 câu lạc bộ khác tại Ả Rập Xê Út.[1] Đội bóng đang thi đấu tại Giải hạng nhất Ả Rập Xê Út vào thời điểm đó đã được đầu tư vào các vụ chuyển nhượng để cạnh tranh giành quyền thăng hạng lên Giải chuyên nghiệp Ả Rập Xê Út.[2]

Vào ngày 6 tháng 5 năm 2024, Al-Qadsiah được thăng hạng lên Saudi Pro League sau trận hòa 2–2 với Ohod.

Biểu tượng

sửa

Biểu tượng của Câu lạc bộ bóng đá Al Qadsiah bao gồm màu đỏ, vàngtrắng. Màu đỏ tượng trưng cho sự hy sinh, nỗ lực và những điều mong muốn, màu vàng tượng trưng cho thu hoạch và sự thoải mái sau những nỗ lực. Sự lựa chọn của hai màu này là kết quả của việc sáp nhập câu lạc bộ Al Shoola, tượng trưng cho phần màu đỏ và vàng, và Câu lạc bộ Al-Wahda, tượng trưng cho phần màu đỏ và trắng.

Ngoài ra, câu lạc bộ còn có những biểu tượng khác, chẳng hạn như một hiệp sĩ cưỡi ngựa với ngọn giáo giơ cao và một quả bóng đá ở phía sau bên trong một tấm khiên gồm màu đỏ và vàng và một hình ảnh mô tả một trong những biệt danh là "Hiệp sĩ phương Đông".

Trang phục

sửa

Nhà tài trợ áo đấu

sửa
Giai đoạn[3] Nhà tài trợ trang phục Nhà tài trợ trên áo (ngực áo) Nhà tài trợ trên áo (cổ tay)
–2011 Hattrick First Advice Không có nhà tài trợ
2015–2017 Lotto Sport Italia Không có nhà tài trợ
2017–2019 Offside Gree Air Conditioners
2019–2020 Skillano Không có nhà tài trợ
2020–2022 Puma AGH
2022–2023 Skillano Yelo
2023–2024 Macron Không có nhà tài trợ
2024–nay Nike

Sân vận động

sửa

Câu lạc bộ bóng đá Al Qadsiah tổ chức các trận đấu sân nhà của câu lạc bộ tại Sân vận động hoàng tử Saud bin Jalawi, Khobar, Ả Rập Xê Út, một sân vận động thể thao có sức chứa 22.000 người và được khánh thành vào năm 1982.[4]

Các cầu thủ

sửa

Đội hình hiện tại

sửa
Tính đến 28 tháng 8 năm 2024[5]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
1 TM   Koen Casteels
2 HV   Mohammed Aboulshamat
4 HV   Jehad Thakri
5 HV   Ezequiel Fernández
6 HV   Nacho
7 TV   Turki Al-Ammar
8 TV   Nahitan Nández
10   Pierre-Emerick Aubameyang
11 TV   Ali Abdullah Hazazi
14   Saif Rashad
15 TV   Hussain Al-Qahtani
17 TV   Gastón Álvarez
21 TV   Naif Al-Ghamdi
Số VT Quốc gia Cầu thủ
24 HV   Mohammed Qassem
28 TM   Ahmed Al-Kassar
32 HV   Abdullah Hassoun
33   Julián Quiñones
39 TV   Abdulrahman Al-Dawsari
40 TV   Ibrahim Mahnashi
50 HV   Mohammed Al-Shanqiti
66   Abdulaziz Al-Othman
77 TV   Yasser Daribi
87 HV   Qassem Lajami
88 TV   Cameron Puertas
96 TV   Hussain Al-Nattar
TV   Haitham Asiri
TV   Iker Almena
TM   Abdulaziz Al-Awairdhi

Những cầu thủ khác ra sân ở đội một

sửa

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
29 TV   Mohammed Al-Marri
49   Eissa Al-Thaqrullah
Số VT Quốc gia Cầu thủ
99 TV   Nafea Al-Sumairi

Cho mượn

sửa

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
HV   Carlos Jiménez (cho mượn tới Villarreal B)
HV   Taher Wadi (cho mượn tới Al-Diriyah)
Số VT Quốc gia Cầu thủ
HV   Mousa Al-Harbi (cho mượn tới Al-Jabalain)

Điều hành câu lạc bộ

sửa

Ban lãnh đạo

sửa
Chức vụ[6] Tên
Tổng giám đốc điều hành   James Bisgrove
Trưởng phòng các hoạt động bóng đá   Hossamedin Bedier
Giám đốc thể thao   Carlos Antón

Ban huấn luyện

sửa
Chức vụ[6] Tên
Huấn luyện viên   Míchel
Trợ lý huấn luyện viên   Juan Carlos Mandiá
  Adrián González
Huấn luyện viên thủ môn   Monchi
  José Luis Silva
Huấn luyện viên thể chất   Quique Sanz
  Miguel Ángel García
Chuyên viên phân tích trưởng   Dominic Mahoney
Huấn luyện viên phục hồi sức khỏe   Jesus David Arco
Huấn luyện viên đội trẻ   Rui Sá Lemos
  Rafael Kwiecien
Huấn luyện viên học viện   Carlos Hugo
Quản lý hiệu quả   Simone Fornari
Chuyên gia vật lý trị liệu   Jesus David Arco
  Alvaro Astolfi Ramos
  Jesper Gabriels

Danh sách huấn luyện viên

sửa
Tính đến 27 tháng 8 năm 2024
Huấn luyện viên Từ Đến Số trận Thắng Hòa Thua Bàn thắng Bàn bại Hiệu số bàn thắng % Tỉ lệ thắng % Danh hiệu
  Hans-Dieter Schmidt 1995 1996
  Ján Pivarník (giai đoạn 2) 2003 2004 &00000000000000020000002 &00000000000000000000000 &00000000000000000000000 &00000000000000020000002 &00000000000000010000001 &00000000000000030000003 −2 00&00000000000000000000000,00
  Dimitar Dimitrov 9 tháng 12 năm 2009 1 tháng 6 năm 2011 &000000000000003900000039 &00000000000000080000008 &000000000000001200000012 &000000000000001900000019 &000000000000004600000046 &000000000000006300000063 −17 0&000000000000002051000020,51
  Mariano Barreto 6 tháng 6 năm 2011 11 tháng 2 năm 2013 &000000000000002900000029 &00000000000000050000005 &00000000000000060000006 &000000000000001800000018 &000000000000003800000038 &000000000000005600000056 −18 0&000000000000001723999917,24
  Gjoko Hadžievski 27 tháng 5 năm 2014 12 tháng 12 năm 2014 &00000000000000010000001 &00000000000000000000000 &00000000000000000000000 &00000000000000010000001 &00000000000000000000000 &00000000000000020000002 −2 00&00000000000000000000000,00
  Robbie Fowler 29 tháng 6 năm 2023 26 tháng 10 năm 2023 &00000000000000090000009 &00000000000000060000006 &00000000000000020000002 &00000000000000010000001 &000000000000001000000010 &00000000000000050000005 +5 0&000000000000006667000066,67
  Míchel 27 tháng 10 năm 2023 nay &000000000000002800000028 &000000000000001800000018 &00000000000000050000005 &00000000000000050000005 &000000000000005800000058 &000000000000002900000029 +29 0&000000000000006429000064,29 Giải bóng đá hạng Nhất quốc gia Ả Rập Xê Út 2023–24

Thành tích câu lạc bộ

sửa

Quốc nội

sửa
  • Cúp Thái tử Ả Rập Xê Út
    • Vô địch (1): 1991–92
    • Á quân (1): 2004–05
  • Giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út
    • Vô địch (1): 2020

Châu Á

sửa

Thành tích tại các giải quốc nội

sửa
Tính đến 27 tháng 8 năm 2024[7]
Mùa giải Giải đấu Hạng Vị trí
2000–01 Saudi Pro League I Thứ 11
2002–03 Saudi Pro League Thứ 3
2003–04 Saudi Pro League Thứ 7
2004–05 Saudi Pro League Thứ 7
2005–06 Saudi Pro League Thứ 8
2006–07 Saudi Pro League Thứ 10
2007–08 Saudi Pro League Thứ 12
2009–10 Saudi Pro League Thứ 10
2010–11 Saudi Pro League Thứ 12
2011–12 Saudi Pro League Thứ 13
2015–16 Saudi Pro League Thứ 11
2016–17 Saudi Pro League Thứ 10
2017–18 Saudi Pro League Thứ 12
2018–19 Saudi Pro League Thứ 14
2020–21 Saudi Pro League Thứ 14
2023–24 Saudi First Division League II Thứ 1 ↑
2024–25 Saudi Pro League I Thứ 2

Thành tích tại các giải đấu cấp câu lạc bộ quốc tế

sửa

Tổng quát

sửa
Tính đến 1 tháng 5 năm 2013
Giải đấu Vị trí Thắng Hòa Thua Bàn thắng Bàn bại
Asian Cup Winners' Cup 6 4 1 1 12 5
Arab Club Champions Cup 2 1 0 1 3 3
Arab Cup Winners' Cup 6 3 1 2 10 4
Tổng cộng 14 8 2 4 25 12

Trận đấu

sửa

Tất cả kết quả (sân nhà và sân khách) đều liệt kê bàn ​​thắng của Al Qadsiah FC trước.

Mùa giải Giải đấu Vòng Câu lạc bộ Nhà Khách Tổng tỷ số
1993–94 Asian Cup Winners' Cup Vòng 1   Al-Wehda 4–1 0−1 4–2
Tứ kết   New Radiant w/o[a]
Bán kết   Al-Arabi 1–0 1−1 2–1
Chung kết   South China 2–0 4−2 6–2
Arab Cup Winners' Cup Bảng B   ASO Chlef 4–2 Thứ 2
  Haifa 3–0
  CO Casablanca 0–1
  Al-Nasr 0–0
Bán kết   Al-Mourada 3–0 3–0
Chung kết   CO Casablanca 0–1 0–1
2005–06 Arab Champions League Vòng 32 đội   Al-Zawraa 3–2 0–1 3−3 (a)

Chú thích

  1. ^ Câu lạc bộ New Radiant bỏ dở giải đấu.

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ “8 sports clubs become firms owned by development bodies” [8 câu lạc bộ thể thao trở thành công ty do các cơ quan phát triển sở hữu]. Argaam Plus (bằng tiếng Anh). 5 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ “Liverpool great Robbie Fowler heads to Saudi Arabia as coach of Al-Qadisiyah” [Ngôi sao của Liverpool Robbie Fowler đến Ả Rập Xê Út làm huấn luyện viên của Al-Qadsiah]. Market Screener (bằng tiếng Anh). 29 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  3. ^ “Al Qadisiyah Kit History”. Football Kit Archive (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2024.
  4. ^ “Design: Prince Saud bin Jalawi Stadium”. Stadium Database (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  5. ^ “Squad Al-Qadsiah FC” [Đội hình Al-Qadsiah FC]. Transfermarkt (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ a b “Staff Al Qadsiah FC” [Đội ngũ nhân viên Al Qadsiah FC]. Transfermarkt (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ “Al Qadsiah FC - Platzierungen des Vereins je nach Saison” [Al Qadsiah FC - Bảng xếp hạng câu lạc bộ theo mùa giải]. Transfermarkt (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2024.

Liên kết ngoài

sửa
Tiền nhiệm:
Yokohama F. Marinos
 
Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Á
Á quân: Nam Hoa AA

1994
Kế nhiệm:
Yokohama Flügels