Trong lượng giác , định lý cotang biểu diễn mối quan hệ giữa các cạnh, các góc của một tam giác và bán kính đường tròn nội tiếp của tam giác đó.
Hình 1 - Tam giác với ba cạnh a , b , c và ba góc đối diện α , β , γ
Định lý cotang phát biểu rằng, nếu biết:
ζ
=
1
s
(
s
−
a
)
(
s
−
b
)
(
s
−
c
)
{\displaystyle \zeta ={\sqrt {{\frac {1}{s}}(s-a)(s-b)(s-c)}}}
là bán kính đường tròn nội tiếp và
s
=
a
+
b
+
c
2
{\displaystyle s={\frac {a+b+c}{2}}}
là nửa chu vi của tam giác thì:[ 1]
cot
α
2
=
s
−
a
ζ
{\displaystyle \cot {\frac {\alpha }{2}}={\frac {s-a}{\zeta }}}
cot
β
2
=
s
−
b
ζ
{\displaystyle \cot {\frac {\beta }{2}}={\frac {s-b}{\zeta }}}
cot
γ
2
=
s
−
c
ζ
{\displaystyle \cot {\frac {\gamma }{2}}={\frac {s-c}{\zeta }}}
Điều đó dẫn tới
cot
(
α
/
2
)
s
−
a
=
cot
(
β
/
2
)
s
−
b
=
cot
(
γ
/
2
)
s
−
c
.
{\displaystyle {\frac {\cot(\alpha /2)}{s-a}}={\frac {\cot(\beta /2)}{s-b}}={\frac {\cot(\gamma /2)}{s-c}}.}
^ The Universal Encyclopaedia of Mathematics, Pan Reference Books, 1976, page 530. English version George Allen and Unwin, 1964. Translated from the German version Meyers Rechenduden, 1960.