Đặng Ngải

Là một đại tướng trứ danh của Tào Ngụy dưới thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc

Đặng Ngải (chữ Hán: 鄧艾; 197 - 264), tự Sĩ Tái (士载), là một đại tướng trứ danh của Tào Ngụy dưới thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Đặng Ngải
Tự Sĩ Tái (士载)
Thông tin chung
Thế lực Tào Ngụy
Chức vụ Thái úy
Sinh 197
Mất 264

Ông là một trong những tướng giỏi của Tào Ngụy vào thời kỳ do Tư Mã Chiêu nắm quyền, nhiều lần có công bảo vệ biên giới phía tây nước Ngụy trước các cuộc tấn công của Khương Duy và chiến công vĩ đại bậc nhất là việc tiêu diệt Thục Hán. Về sau ông bị sự liên hợp của Chung HộiVệ Quán vu hãm hại thân.

Tài năng quân sự của Đặng Ngải được nhiều nhà chính trị và quan lại đời sau như Đường Bân, Đoàn Chước, Lương Chu Hãn, Úy Nguyên, Thành Yểm, Ngụy Tĩnh, Lý Sĩ Khiêm, Mạnh Tri Tường, Hạng Trung, Trần Lượng đánh giá cao, kèm theo đó là sự thương cảm cho kết cục bi thảm của ông. Nhiều lời nhận xét được ghi lại nhiều trong các bộ sử thời xưa.

Xuất thân

sửa

Tam quốc chí không cho biết rõ về thân thế và gia đình của Đặng Ngải, chỉ cho biết rằng gia tộc của ông nhiều đời định cư ở vùng Cức Dương, Nghĩa Dương (nay là Tân Dã, Hà Nam). Tên ban đầu là Đặng Phạm (鄧範), tự Sĩ Tắc (士則), sau có người đồng tộc cùng tên nên đổi tên thành Ngải, cũng đổi tên tự[1]. Đặng Ngải là đồng tộc của Đặng Chi, mất cha từ nhỏ, gia cảnh nghèo khó, lại thêm lúc nhỏ có tật ở miệng. Năm 12 tuổi, ông theo mẹ di cư về vùng Dĩnh Xuyên (nay thuộc vùng Thượng Thái, tỉnh Hà Nam).

Đặng Ngải từ nhỏ đã ham học và có chí lớn. Nhờ vào tài năng của mình, đến tuổi trưởng thành, ông được cử làm Điển nông đô úy, quản lý tình hình nông nghiệp trong huyện. Tuy nhiên, ông vẫn dành sự ưu ái và đam mê của mình cho lĩnh vực quân sự, thường đến những vùng núi cao, quan sát kĩ địa thế và quy hoạch bố phòng ở đó việc này bị nhiều kẻ chê cười[2].

Đặng Ngải làm quan địa phương trong khoảng thời gian hơn 10 năm, thì may mắn có cơ hội được diện kiến với thái úy triều Ngụy là Tư Mã Ý, người nắm giữ nhiều quyền lực trong triều đình. Tư Mã Ý nhanh chóng mến phục tài năng của ông, quyết định đề bạt lên làm Thái úy phủ chi duyện chúc rồi sau đó lại thăng lên chức Thượng thư lang[3].

Tích lương khẩn hoang

sửa

Năm 240, thời Tào Phương, nước Ngụy triển khai tích trữ và trưng thu lương thực tại các vùng hai bờ sông Hoài để bổ sung quân lương. Đặng Ngải được phái đến thị sát. Ông đưa ra lời nhận xét vùng đất này ít nước chảy, kênh mương ít, không đủ để dẫn nước tưới tiêu, nên đề xuất dẫn nước từ sông Hoàng Hà vào vùng Lưỡng Hoài. Ngoài ra việc mỗi lần ra quân phải dùng nhiều lính, đường vận chuyển lương thực xa và tốn kém chi phí, nên kiến nghị chiêu nạp năm vạn quân ở Hoài Bắc và Hoài Nam, cứ năm dặm lập một doanh trại, mỗi doanh sáu mươi người, lo việc trưng thu, vận chuyển lương thực thường xuyên. Mỗi khi vùng đông nam xảy ra chiến tranh thì cho đại quân đi ngang qua vùng Giang Hoài lấy lương thực. Tư Mã Ý chấp nhận kiến nghị này của ông và cho thi hành. Sau sáu bảy năm, có thể tích trữ được mấy mươi vạn hộc lượng đủ dùng cho 10 vạn quân ăn trong vòng 5 năm[4].

Bắt đầu cầm quân

sửa

Năm 251, không bao lâu sau khi đoạt được binh quyền trong triều đình, Tư Mã Ý qua đời[5]. Con trưởng là Tư Mã Sư lên nối chức[6], thăng Đặng Ngải làm thái thú Nhữ Nam[7], sau thăng lên thứ sử Duyện châu, Chấn Uy tướng quân.

Về sau Đặng Ngải được triều đình nhà Ngụy phong làm thái thú Nam An, bắt đầu cuộc đời cầm quân. Năm 249, Khương Duy ở Tây Thục đưa quân tiến công Ung châu[8]. Đặng Ngải cùng tướng quân Quách HoàiTrần Thái được lệnh ra trận giao chiến với Khương Duy. Quân của ông tiến vào vùng Khúc Thành[9], quân Thục chống trả không nổi phải rút lui. Nước Ngụy để Đặng Ngải ở lại giữ vùng Bạch Thủy[10] để đề phòng quân Thục phản công. Khương Duy sai quân đến tập kích vào quân doanh của ông. Đặng Ngải đoán rằng Khương Duy muốn kìm chân mình để tập kích Thao Thành[11] ở phía bắc nên bí mất đang đêm dẫn quân tiến vào Thao Thành trấn giữ, quân Khương Duy không đánh được. Sau trận này, Đặng Ngải được phong chức Quan nội hầu, Thảo Khấu tướng quân rồi sau được thăng làm thái thú Thành Dương[12].

Bình định Vô Khâu Kiệm

sửa

Năm 254, Tư Mã Sư phế truất Ngụy đế Tào Phương[13], lập Tào Mao lên ngôi vua. Đặng Ngải được triều đình tiến phong tước vị Phương Thành đình hầu. Cùng lúc đó, Vô Khâu Kiệm ở U châu nghe tin Tư Mã Sư phế lập, bèn khởi binh thảo phạt. Tư Mã Sư cử Đặng Ngải dẫn 1 vạn quân Thái Sơn ra Lạc Gia để dẫn dụ Vô Khâu Kiệm ra đánh, còn tự mình cầm quân chủ lực tới Nhữ Dương. Nghe tin Đặng Ngải mang quân tới Lạc Gia, Vô Khâu Kiệm sai tướng Văn Khâm ra đón đánh. Tư Mã Sư mang quân chủ lực đánh tập hậu, hỗ trợ cho Đặng Ngải. Ông cho quân truy kích Văn Khâm tới vùng Khâu Đầu. Văn Khâm không địch nổi, bị thua tan tác và bỏ trốn sang Ngô quốc[14]. Không lâu sau Vô Khâu Kiệm cũng bị đánh bại.

Ít lâu sau Tôn Tuấn ở Đông Ngô đem hơn 10 vạn quân tiến công Ngụy. Trấn Đông tướng quân Gia Cát Đản sai Đặng Ngải đến Phì Dương chống địch. Đặng Ngải thấy rằng địa thế vùng đất này còn xa quân Ngô, không phải nơi hiểm yếu, bèn dời sang Phụ Đình, sai thái thú Thái Sơn Gia Cát Tự ra giao chiến với quân Ngô ở vùng Lê Tương, đánh bại quân của Tôn Tuấn.

Cùng năm đó, triều đình nhà Ngụy lại thăng Đặng Ngải lên chức Trường Thủy giáo úy rồi tiến tước Phương Thành hương hầu (trước là Đình hầu), gia phong An Tây tướng quân[15].

Trận chiến Địch Đạo

sửa

Năm 255, Tư Mã Sư lâm bệnh nặng, Khương Duy lại nhân cơ hội đó đem hơn 10 vạn quân phạt Ngụy, tiến công vùng Địch Đạo, Lũng Tây[16], đánh thắng thái thú Ung châu Vương Kinh. Tướng Ngụy là Trần Thái ra quân xuất trận, bị Khương Duy đánh bại. Tư Mã Chiêu bèn phái Đặng Ngải làm An Tây tướng quân hợp sức với Trần Thái kháng Thục. Quân của Đặng Ngải tiến vào Lũng Tây hội với Trần Thái, sau đó phân thành ba đường tiến vào địa phận Lũng Tây, đánh vùng Cao Thành Lĩnh[17] và phía đông nam núi Địch Đạo. Khương Duy nhiều lần cho quân tiến đánh đều không thắng, cuối cùng phải rút về Chung Đế[18][19].

Đặng Ngải lo Khương Duy sẽ còn đem quân đến đánh, do đó bố trí phòng bị kỹ lưỡng ở khu vực Kỳ Sơn.

Trận chiến Đoạn Cốc

sửa

Sang năm 256, Khương Duy cùng với Trấn Tây tướng quân nước Thục Hồ Tế hội ước tại đất Thượng[20], dự định cùng nhau đánh Ngụy. Đặng Ngải vốn có phòng bị từ trước, khi được tin liền đem quân từ Đổng Đình[21] công đánh Nam An[22], sau đó tiến chiếm và cố thủ ở núi Vũ Thành[23]. Khương Duy bèn nhân đêm tối cho quân vượt sông Vị Thủy tiến về phía đông, vào vùng đất Thượng, giao chiến với quân của Đặng Ngải ở Đoạn Cốc[24]. Tuy nhiên quân Thục lâm vào tình thế bất lợi do Hồ Tế bội ước không đem quân trợ giúp, nên bị thiệt hại nặng và phải rút lui[25].

Sau trận đại thắng ở Đoạn Cốc, Đặng Ngải được triều đình nhà Ngụy phong làm Trấn Tây tướng quân, Đô đốc Lũng Hữu chư quận sự, tiến tước Đặng hầu. Người con của ông là Đặng Trung cũng được phong làm Đình hầu[26].

Không chiến tự thắng

sửa

Năm 257, tướng Ngụy Gia Cát Đản liên kết với Đông Ngô khởi binh chống lại Tư Mã Chiêu ở vùng Hoài Nam[27]. Tư Mã Chiêu bèn khởi binh tiến về phía đông thảo phạt. Khương Duy thừa cơ hội đó, đưa quân phạt Ngụy, tiến công Tần Xuyên[28]. Lúc này, quân Ngụy tích trữ nhiều quân lương ở Trường thành[29], nhưng lại có số quân phòng thủ ít và bạc nhược, nhanh chóng bị Khương Duy đánh bại. Đặng Ngải và tướng Tư Mã Vọng nghe tin mất Trường Thành, vô cùng hoảng sợ vội điều quân về cố thủ. Quân Thục sau đó tiến vào vùng Mang Thủy[30]. Đặng Ngải bèn cùng Tư Mã Vọng lập trại phòng thủ. Quân Thục nhiều lần tới khiêu chiến nhưng quân của Đặng Ngải vẫn cố thủ không ra.

Tình trạng gườm nhau này kéo dời tới một năm. Đến khi Tư Mã Chiêu tiêu diệt được Gia Cát Đản (258), Khương Duy đành phải rút quân về. Quân Đặng Ngải thắng trận mà hầu như chưa phải ra trận giao chiến. Nhờ vào chiến công này, Ngải được tái thăng làm Chinh Tây tướng quân, tăng thực ấp lên 600 hộ[31][32].

Sang năm 262, Khương Duy tiếp tục tiến đánh vùng Thao Dương. Đặng Ngải đưa quân phá tan quân Thục ở Hầu Hòa[33], quân Thục bị tổn thất nghiêm trọng. Khương Duy phải lui quân về Đạp Trung[34][35]. Cuộc bắc phạt coi như thất bại.

Diệt Thục

sửa

Mùa thu năm 263, Tư Mã Chiêu quyết định đem đại quân đánh thẳng vào Thành Đô của nước Thục, phái Đặng Ngải cùng với Chung Hội cùng tiến đánh, trong đó ba vạn quân do Đặng Ngải chỉ huy được lệnh đánh bọc vào sau lưng quân Thục. Ông sai thái thú Thiên Thủy Vương Kì dẫn quân đuổi đánh cánh quân của Khương Duy. Cùng lúc đó cánh quân ba vạn người khác do Gia Cát Tự chỉ huy cũng chiếm được vùng Vũ Đô, tiến gần đến Âm Bình, cắt đường rút lui của Khương Duy và dồn ông ta vào Khổng U cốc[36], tuy nhiên sau đó Khương Duy trốn thoát[37].

Nghe tin hai cánh quân Ngụy kéo đến, nước Thục mới cử Trương Dực, Đổng Quyết dẫn quân tới Dương An lập trại tiếp ứng. Sau đó Chung Hội tấn công dữ dội vào Hán Trung và Lạc Thành và nhanh chóng công hạ Hán Trung, buộc Khương Duy rút về Kiếm Các.

Tháng 10 năm 263, Đặng Ngải cho tiến quân theo đường núi Âm Bình, vượt qua Cảnh Cốc, đánh bại tướng Thục là Gia Cát Chiêm (con trai của Gia Cát Lượng) ở Miên Trúc rồi tiến thẳng vào Thành Đô. Ông đem quân đi lẻn về phía núi Âm Bình, một vùng núi non hiểm trở, nơi mà quân Thục không phòng bị, trấn thủ Giang Du là Mã Mạc đầu hàng. Quân Ngụy ra khỏi 800 dặm đường núi hoang vắng, xuống đồng bằng phá thành Miên Trúc. Đặng Trung và Tư Mã Sư Toản đưa hai cánh quân tả hữu ra giao chiến với Gia Cát Chiêm, gặp bất lợi định quay về. Đặng Ngải không chịu và phái trở lại tham chiến. Lần này quân Ngụy giết chết Gia Cát Chiêm vào thẳng Thành Đô. Thục chúa cùng đường, phải đưa thái tử ra đầu hàng quân Ngụy. Nước Thục diệt vong[38][39].

Trận chiến tiêu diệt nước Thục là đỉnh cao trong sự nghiệp của Đặng Ngải, song đồng thời cũng là trận chiến cuối cùng trong cuộc đời ông. Đặng Ngải phong cho Hậu Chủ làm Phiêu kỵ tướng quân rồi đưa về Lạc Dương.

Kiêu ngạo hại thân

sửa

Tháng 12 năm 263, Tư Mã Chiêu hạ chỉ tiến phong cho Đặng Ngải làm Thái úy, tăng thực ấp lên 20000 hộ, đồng thời phong cho hai người con khác của ông lên tước Hầu[40].

Đặng Ngải đóng quân ở Thành Đô, muốn lưu quân ở lại để sang đánh Đông Ngô. Tư Mã Chiêu sai Vệ Quán lệnh cho Đặng Ngải phải đợi đề nghị được phê chuẩn mới được làm, nhưng Đặng Ngải cậy có công to nên tỏ ý muốn tự mình hành động không cần tuân lệnh triều đình.

Cùng lúc, Chung Hội cũng ghen công với Đặng Ngải, viết thư vu cáo Đặng Ngải muốn làm phản. Tư Mã Chiêu tin Đặng Ngải có ý phản, bèn sai Vệ Quán mang quân vào Thục, tới Thành Đô bắt cha con Đặng Ngải. Vệ Quán theo lệnh mang xe tù đến bắt giữ Đặng Ngải cùng con là Đặng Trung, giải về Lạc Dương. Trong khi đó Chung Hội kéo quân vào Thành Đô, một mình nắm giữ binh mã trong nước Thục.

Tháng 1 năm 264, Vệ Quán đưa quân vào Thành Đô, giết được Chung Hội. Các tướng sĩ dưới quyền Đặng Ngải thấy Chung Hội đã chết vội đuổi theo xe tù chở cha con Đặng Ngải, đánh cướp lấy và cứu Đặng Ngải, Đặng Trung ra. Vệ Quán ở Thành Đô sợ Đặng Ngải thù mình việc bắt giữ, bèn sai Điền Tục mang quân đánh giết họ Đặng. Điền Tục đánh bại quân bản bộ của Đặng Ngải và giết chết Đặng Ngải và Đặng Trung ở đình Tam Tạo phía tây Miên Trúc[41][42].

Sau này triều đình đồng loạt cho giết hại tất cả những người con trai còn lại của Đặng Ngải, còn thê thiếp và các cháu của ông bị đưa sang lưu đày ở Tây Vực [43][44].

Truy phong

sửa

Một năm sau cái chết của Đặng Ngải, con Tư Mã ChiêuTư Mã Viêm đoạt ngôi nhà Ngụy, lập ra nhà Tấn[45]. Năm 273, Tấn chủ hạ lệnh đại xá, khôi phục quan tước cho Đặng Ngải và phong cho người cháu nội của ông là Đặng Lãng làm Lang trung[46].

Các triều đại sau này tỏ thái độ khâm phục và kính trọng tài năng của Đặng Ngải. Vào đời nhà Đường, Lễ nghi sử Nhan Chân Khanh từng dâng kiến nghị lên Đường Đức Tông xin truy phong và lập miếu thời cho các 64 tướng lĩnh thời xưa, trong đó có nhiều tướng dưới thời Tam Quốc là Đặng Ngải cùng với một số nhân vật như Trương Liêu, Quan Vũ, Trương Phi, Chu Du, Lục Tốn, Lục Kháng, Lã Mông...[47]. Đến đời nhà Tống, năm thứ năm niên hiệu Tuyên Hòa, triều đình liệt kê hàng 72 danh tướng thời cổ đại, trong đó có tên của Đặng Ngải. Cả 72 người đều được lập miếu thờ[48].

Trong Tam Quốc diễn nghĩa

sửa

Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Đặng Ngải xuất hiện từ hồi 107 qua lời giới thiệu của Hạ Hầu Bá với Khương Duy. Thời hậu kỳ Tam Quốc sau khi Gia Cát LượngTư Mã Ý đều qua đời, Đặng Ngải trong số những tướng lĩnh nổi bật nhất bên cạnh anh em họ Tư Mã, Chung HộiKhương Duy. Ông là tướng lĩnh chủ chốt của Tào Ngụy tại mặt trận phía tây, ngăn chặn những cuộc bắc tiến của Khương Duy, nhiều lần đánh bại Khương Duy.

Hình ảnh Đặng Ngải thực sự nổi bật từ mặt trận đánh Thục, với công đánh chiếm Thành Đô, bức hàng Lưu Thiện. Việc tranh công giữa ông và Chung Hội được Khương Duy triệt để tận dụng nhằm khôi phục nhà Hán. Cuối cùng ông bị kẻ tư thù là Điền Tục chém chết khi mới được thả từ trong xe tù ra (sau khi Khương Duy, Chung Hội đã chết).

La Quán Trung có thơ than khóc Đặng Ngải như sau:

Khôn ngoan từ thuở nhỏ,
Mưu mẹo như quý thần,
Ngước mắt hay địa lý;
Ngẩng đầu biết thiên văn,
Mây tan đường ruỗi ngựa,
Đá rẽ lối hành quân.
Ngán nỗi công thành tội,
Hồn quanh bến Hán Tân.[49]

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Ngải toại tự danh Phạm, tự Sĩ Tắc. Hậu tông tộc hữu dữ  đồng giả, cố cải yên.
  2. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Mỗi kiến cao san đại trạch, triếp quy độ chỉ họa quân  doanh xử sở, thì nhân đa tiếu yên.
  3. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Tuyên vương kỳ chi, tích chi vi duyện, thế ngữ viết: Đặng Ngải thiểu vi tương thành điển nông bộ dân, dữ thạch bao giai niên thập nhị tam, yết giả dương địch quách huyền tín. Vũ đế giam quân Quách Đản Nguyên Dịch dịch chi tử. Kiến an trung, thiếu phủ cát bổn khởi binh Hứa Đô, huyền tín tọa bị hình tại gia, tòng Điển Nông tư mã cầu nhân ngự, dĩ Ngải, bao dữ ngự, hành thập dư lý, dữ ngữ duyệt chi, vị nhị nhân giai đương viễn chí vi tá tương. Ngải hậu vi điển nông công tào, phụng sử nghệ Tuyên vương, do thử kiến tri, toại bị bạt trạc, thiên Thượng thư lang.
  4. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Ngải dĩ vi "điền lương thủy thiểu, bất túc dĩ tẫn địa lợi, nghi khai hà cừ, khả dĩ dẫn thủy kiêu cái, đại tích quân lương, hậu thông vận tào chi đạo". Nãi trứ tể hà luận dĩ dụ  kỳ chỉ. Hậu dĩ vi "Tích phá Hoàng Cân, nhân vi truân điền, tích cốc vu Hứa Đô dĩ chế tứ phương. Kim Tam Ngung dĩ định, sự tại Hoài Nam, mỗi đại quân chinh cử, vận binh quá bán, công phí cự ức, dĩ vi đại dịch. Trần Thái chi gian, thổ hạ điền lương, khả tỉnh Hứa Xương tả hữu chư đạo điền, tịnh thủy đông hạ. lệnh Hoài Bắc truân nhị vạn nhân, Hoài Nam tam vạn nhân, thập nhị phân hưu, thường hữu tứ vạn nhân, thả điền thả thủ. Thủy phong thường thu tam bội ư tây, kế trừ chúng phí, tuế hoàn ngũ bách vạn hộc dĩ  i quân tư. lục thất niên gian khả tích tam thiên vạn hộc ư Hoài thượng, thử tắc thập vạn chi chúng ngũ niên thực dã. Dĩ thử thừa ngô, vô vãng nhi bất khắc hĩ. Tuyên vương thiện chi, sự giai thi hành. Chánh Thủy nhị niên, nãi khai nghiễm tào cừ, mỗi đông nam hữu sự, đại quân hưng chúng, phiếm chu nhi hạ, đạt vu Giang Hoài, tư thực hữu trữ nhi vô thủy hại. Ngải sở kiến dã
  5. ^ Tấn thư, quyển 1: Lục nguyệt, đế tẩm tật, mộng Giả Quỳ, Vương Lăng vi túy, thậm ác chi. Thu bát nguyệt Mậu Dần, băng ư kinh sư, thì niên thất thập tam
  6. ^ Tấn thư, quyển 2: Cập Tuyên đế hoăng, nghị giả hàm vân: Y Duẫn ký tốt, Y Trắc  tự sự", thiên tử mệnh đế dĩ phủ quân đại tương quân phụ chánh. Ngụy gia bình tứ niên xuân chánh nguyệt, thiên đại tương quân, gia  Thị trung, Trì tiết, Đô đốc trung ngoại chư quận, Lục thượng thư sự
  7. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Đại tướng quân Tư Mã Cảnh vương tân phụ chánh, đa nạp dụng yên, thiên Nhữ Nam thái thú
  8. ^ Nay nằm ở phía đông Cam Túc và phía tây Quan Trung
  9. ^ Nay thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  10. ^ Nay thuộc Bạch Long Giang, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  11. ^ Nay thuộc phía tây nam Lâm Đàm, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  12. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Tam nhật, Duy khiển Liệu Hóa tự Bạch Thủy nam hướng Ngải kết doanh。 Ngải vị chư tướng viết: "Duy kim tốt hoàn, ngô quân nhân thiểu, pháp đương lai độ nhi bất tác kiều. Thử duy sử  hóa trì ngô, lệnh bất đắc hoàn. Duy tất tự đông tập thủ thao thành. Thao thành tại thủy bắc, khứ Ngải truân lục thập lý. Ngải tức dạ tiềm quân kính đáo, Duy quả lai độ, nhi ngải tiên chí cư thành, đắc dĩ bất bại. Tứ tước Quan nội hầu, gia Thảo khấu tướng quân, hậu thiên Thành Dương thái thú
  13. ^ Tam quốc chí, quyển 4
  14. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Kì Diệm tác loạn, khiển kiện bộ Tê thư, dục nghi hoặc đại chúng, Ngải trảm chi, kiêm đạo tiến quân, tiên thú Nhạc Gia thành, tác phù kiều. Tư Mã Cảnh vương chí, toại cư chi. Văn Khâm dĩ hậu đại quân phá bại ư thành hạ, Ngải truy chi chí khâu đầu, Khâm bôn ngô
  15. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Ngô đại tướng quân Tôn Tuấn đẳng hào thập vạn chúng, tương độ giang. Trấn Đông tướng quân Gia Cát Đản khiển Ngải cư Phì Dương. Ngải dĩ dữ tặc thế tương viễn, phi yếu hại chi địa, triếp di truân phụ đình, khiển Thái Sơn thái thủ Gia Cát Tự đẳng vu lê tương cự chiến, toại tẩu chi. Kỳ niên trưng bái Trường Thủy giáo úy, dĩ phá Khâm đẳng công, tiến phong Phương Thành hương hầu, hành An Tây tương quân
  16. ^ Nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  17. ^ Nay thuộc tây bắc huyện Vị Nguyên, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  18. ^ Tam quốc chí, quyển 44: Hậu thập bát niên, phục dữ xa kị tướng quân Hạ Hầu Bá đẳng câu xuất địch đạo, đại phá Ngụy ung châu thứ sử Vương Kinh ư Thao Tây, kinh chúng tử giả sổ vạn nhân. Kinh thối bảo địch đạo thành, duy vi chi. Ngụy trưng tây tương quân Trần Thái tiến binh giải vi, Duy khước trụ Chung Đề
  19. ^ Nay nằm ở phía nam Lâm Thao, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  20. ^ Nay thuộc huyện Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  21. ^ Nay thuộc phía nam huyện Vũ Sơn, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  22. ^ Nay nằm ở đông nam Lũng Tây, tỉnh Cam Túc
  23. ^ Tây nam Vũ Sơn, Cam Túc
  24. ^ Tây nam huyện Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
  25. ^ Tam quốc chí, quyển 44: Thập cửu niên xuân, tựu thiên Duy vi Đại tương quân, canh chỉnh lặc nhung mã, dữ Trấn tây đại tướng quân Hồ Tế kì hội thượng. Tế thất thệ bất chí, cố Duy vi Ngụy đại tương Đặng Ngải sở phá ư đoạn cốc, tinh tán lưu li
  26. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Duy dữ Ngải tranh hiểm, bất khắc, kì dạ độ vị đông hành, duyên san thú thượng, Ngải dữ chiến ư Đoạn Cốc, đại phá chi. Cam lộ nguyên niên chiếu viết:"Nghịch tặc Khương Duy liên niên giảo hiệt, dân di tao động, tây thổ bất trữ. Ngải trù họa hữu phương, trung dũng phấn phát, trảm tương thập sổ, quắc thủ thiên kế; quốc uy chấn ư Ba, Thục, Vũ Thanh dương ư Giang. Kim dĩ Ngải vi Trấn tây tướng quân, Đô đốc lũng hữu chư quân sự, tiến phong Đặng hầu, phân ngũ bách hộ phong tử Trung vi đình hầu
  27. ^ Tấn thư, quyển 2: Nhị niên hạ ngũ nguyệt tân vị, Trấn đông đại tương quân Gia Cát Đản sát Dương châu thứ sử, dĩ Hoài Nam tác loạn, khiển tử tịnh vi chất ư Ngô dĩ thỉnh cứu
  28. ^ Nay thuộc lưu vực sông Vị Thủy
  29. ^ Tây nam Chu Chí, Thiểm Tây
  30. ^ Hắc Thủy, Thiểm Tây, Trung Quốc
  31. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Nhị niên, cự Khương Duy vu Trường Thành, Duy thối hoàn. Thiên Chinh tây tướng quân, tiền hậu tăng ấp phàm lục thiên lục bách hộ
  32. ^ Tam quốc chí, quyển 44: Nhị thập niên, Ngụy Trưng Đông đại  tương quân Gia Cát Đản phản ư Hoài Nam, phân Quan Trung binh đông hạ. Duy dục thừa hư hướng Tần Xuyên, phục suất sổ vạn nhân xuất lạc  cốc, kính chí trầm lĩnh. Thì trường thành tích cốc thậm đa nhi thủ binh nãi thiểu, văn Duy phương đáo chúng giai hoàng cụ. Ngụy đại tướng quân Tư Mã Vọng cự chi, Đặng Ngải diệc tự Lũng Hữu giai quân ư Trường thành. Duy tiền trụ mang thủy, giai ỷ san vi doanh. Vọng, Ngải bàng vị kiên vi, Duy sổ hạ thiêu chiến. Vọng, Ngải bất ứng. Cảnh Diệu nguyên niên, Duy văn Đản phá bại, nãi hoàn Thành Đô
  33. ^ Đông bác Trác Ni, Thiểm Tây
  34. ^ Phía tây huyện Đa Khúc, nam Mân huyện thuộc Cam Túc
  35. ^ Tam quốc chí, quyển 34: Thị tuế Khương Duy phục suất chúng xuất Hầu Hòa, vi Đặng Ngải sở phá, hoàn trụ Đạp Trung
  36. ^ Nay thuộc vùng ngoài Bạch Lang Giang, bến nước Khổng U, huyện Vũ Đô, Cam Túc
  37. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Tứ niên thu, chiếu chư quân chinh Thục, đại tương quân Tư Mã Văn vương giai chỉ thụ tiết độ, sử Ngải dữ duy tương chuế liên. Ung châu thứ sử Gia Cát Tự yếu duy, lệnh bất đắc quy. Ngải khiển Thiên Thủy thái thủ Vương Kì đẳng trực công duy doanh, Lũng Tây thái thú Khản Hoằng đẳng yêu kì tiền, Kim Thành thái thủ Dương Hân đẳng nghệ cam tùng. Duy văn Chung Hội chư quân dĩ nhập Hán Trung, dẫn thối hoàn
  38. ^ Tam quốc chí, quyển 28:Đông thập nguyệt, Ngải tự Âm Bình đạo hành vô nhân chi địa thất bách dư lý, tạc san thông đạo, tạo tác Kiều Các san cao cốc thâm, chí vi gian hiểm, hựu lương vận tương quỹ, tần ư nguy đãi. Ngải dĩ chiên tự khỏa, thôi chuyển nhi hạ. Tương sĩ giai phàn mộc duyên nhai, ngư quán nhi tiến. Tiên đăng chí giang do, Thục thủ tướ Mã Mạc hàng.Thục Vệ tương quân Gia Cát Chiêm tự phù hoàn Miên Trúc, liệt trần đãi Ngải. Ngải khiển tử huệ đường đình hầu Trung đẳng xuất kì hữu, tư mã sư toản đẳng xuất kì tả. Trung toản chiến bất lợi, tịnh thối hoàn, viết: "Tặc vị khả kích." Ngải nộ viết:"Tồn vong chi phân, tại thử nhất cử, hà bất khả chi hữu?". Nãi sất Trung, toản đẳng, tương trảm chi. Trung, Toản trì hoàn canh chiến, đại phá chi, trảm Chiêm cập thượng thư Trương Tuân đẳng thủ, tiến quân đáo lạc. Lưu Thiện khiển sử phụng hoàng đế tỉ thụ, vi tiên nghệ Ngải thỉnh hàng
  39. ^ Tam quốc chí, quyển 34: Ngải chí thành bắc, hậu chủ hưng sấn tự phược, nghệ quân lũy môn. Ngải giải phược phần sấn, diên thỉnh tương kiến. Tấn chư công tán viết: Lưu Thiện thừa loa xa nghệ ngải, bất cụ vong quốc chi lễ. Nhân thừa chế bái hậu chủ vi Phiêu kị tướng quân. Chư vi thủ tất bị hậu chủ sắc, nhiên hậu hàng hạ
  40. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Chiếu viết: "Ngải diệu uy phấn vũ, thâm nhận Lỗ đình, trảm tướng khiên kì, kiêu kì kình nghê, sử tiếm hào chi chủ, kê thủ hệ cảnh, lịch thế bô tru, nhất triều nhi bình. Binh bất du thì, chiến bất chung nhật, vân triệt tịch quyển, đãng định Ba Thục. Tuy Bạch Khởi phá cường Sở, Hàn Tín khắc kính triệu, Ngô Hán cầm Tử Dương, Á Phu diệt thất quốc, kế công luận mĩ, bất túc bỉ huân dã. Kì dĩ Ngải vi thái úy, tăng ấp nhị vạn hộ, phong tử nhị nhân đình hầu, các thực ấp thiên hộ
  41. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Ngải phụ tử ký tù, Chung Hội chí Thành Đô, tiên tống Ngải, nhiên hậu tác loạn. Hội dĩ tử, ngải bổn doanh tương sĩ truy xuất  Ngải hạm xa, nghênh hoàn。 Quán khiển Điền Tục đẳng thảo ngải, ngộ ư miên trúc tây, trảm chi Tử Trung dữ ngải câu tử
  42. ^ Tấn thư, quyển 36: Đặng Ngải bổn doanh tướng sĩ phức truy phá hạm xa xuất Ngải, hoàn hướng Thành Đô. Quán tự dĩ dữ Hội cộng hãm Ngải, cụ vi biến, hựu dục chuyên tru Hội chi công, nãi khiển Hộ quân Điền Tục chí Miên Trúc, dạ tập Ngải ư Tam Tạo đình, trảm Ngải cập kì tử Trung
  43. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Dư tử tại Lạc Dương giả tất tru, tỉ Ngải thê tử cập tôn ư Tây Vực
  44. ^ Tư trị thông giám, quyển 78: Đặng Ngải bổn doanh tướng sĩ truy xuất Ngải ư hạm xa, nghênh hoàn. Vệ Quán tự dĩ dữ Hội cộng hãm Ngải, khủng kì vi biến, nãi khiển hộ quân Điền Tục đẳng tương binh tập Ngải, ngộ ư miên trúc tây, trảm nNgải phụ tử
  45. ^ Tấn thư, quyển 3:...Viêm kiền phụng hoàng vận. Dần úy thiên uy, kính giản nguyên thần, thăng đàn thụ thiện, cáo loại Thượng đế, vĩnh đáp chúng vọng. Lễ tất, tức Lạc Dương cung hạnh
  46. ^ Tam quốc chí, quyển 28: Thái Thủy nguyên niên, Tấn thất tiễn tộ, chiếu viết:"Tích thái úy Vương Lăng mưu phế Tề vương, nhi vương cánh bất túc dĩ thủ vị. Chinh tây tướng quân Đặng Ngải, căng công thất tiết, thật ứng đại tích. Nhiên bị thư chi nhật, bãi khiển nhân chúng, thúc thủ thụ tội, bỉ vu cầu sanh toại vi ác giả, thành phục bất đồng. Kim đại xá đắc hoàn, nhược vô tử tôn giả thính sử lập hậu, lệnh tế tự bất tuyệt."Tam niên, nghị lang Đoàn Chước thượng sơ lý Ngải viết:" Ngải tâm hoài chí trung nhi hà phản nghịch chi danh, bình định Ba Thục nhi thụ di diệt chi tru, thần thiết điệu chi. Tích tai, ngôn Ngải chi phản dã! Ngải tính cương cấp, khinh  phạm nhã tục, bất năng hiệp đồng bằng loại, cố mạc khẳng lý chi. Thần cảm ngôn Ngải bất phản chi trạng. Tích Khương Duy hữu đoạn lũng hữu chi chí, Ngải tu trị bị thủ, tích cốc cường binh. trị tuế hung hạn, Ngải vi khu chủng, thân bị ô y, thủ chấp lỗi tỉ, dĩ suất tướng sĩ. Thượng hạ tướng cảm, mạc bất tẫn lực. Ngải trì tiết thủ biên, sở thống vạn sổ, nhi bất nan phó lỗ chi lao, sĩ dân chi dịch, phi chấp tiết trung cần, thục năng nhược thử? cố Lạc Môn, Đoạn Cốc chi chiến, dĩ thiểu kích đa, tồi phá cường tặc. Tiên đế tri kì khả nhậm, ủy Ngải miếu thắng, thụ dĩ trường sách. Ngải thụ mệnh vong thân, thúc mã huyền xa, tự đầu tử địa, dũng khí lăng vân, sĩ chúng thừa thế, sử lưu thiện quân thần diện phược, xoa thủ khuất tất. Ngải công danh dĩ thành, đương thư chi trúc bạch, truyện tộ vạn thế. Thất thập lão công, phản dục hà cầu! Ngải thành thị dưỡng dục chi ân, tâm bất tự nghi, kiểu mệnh thừa chế, quyền an xã tắc; tuy vi thường khoa, hữu hợp cổ nghĩa, nguyên tâm định tội, bổn tại khả luận. Chung Hội kị Ngải uy danh, cấu thành kì sự. trung nhi thụ tru, tín nhi kiến nghi, đầu huyền mã phất, chư tử tịnh trảm, kiến chi giả thùy khấp, văn chi giả than tức. Bệ hạ long hưng, xiển hoằng đại độ, thích chư hiềm kị, thụ tru chi gia, bất câu tự dụng. Tích tần dân liên Bạch Khởi chi vô tội, Ngô nhân thương Tử Tư chi oan khốc, giai vi lập từ. Kim thiên hạ dân nhân vi Ngải điệu tâm thống hận, diệc do thị dã. Thần dĩ vi Ngải thân thủ phân li, quyên khí thảo thổ, nghi thu thi tang, hoàn kì điền trạch. dĩ bình Thục chi công, thiệu phong kì tôn, sử hạp quan định, tử vô dư hận. xá oan hồn vu hoàng tuyền, thu tín nghĩa vu hậu thế, táng nhất nhân nhi thiên hạ mộ kì hành, mai nhất hồn nhi thiên hạ quy kì nghĩa, sở vi giả quả nhi duyệt giả chúng hĩ" Cửu niên, chiếu viết:" Ngải hữu công huân, thụ tội bất đào hình, nhi tử tôn vi dân đãi, trẫm thường mẫn chi. kì dĩ đích tôn Lãng vi Lang trung." 
  47. ^ Tân Đường thư, quyển 15: Kiến trung tam niên,lễ nghi sử Nhan Chân Khanh tâu: trị vũ thành miếu, thỉnh như nguyệt lệnh, xuân, thu thích điện. Kì truy phong dĩ vương, nghi dụng chư hầu chi sổ, nhạc tấu hiên huyền. Chiếu sử quán khảo định khả phối hưởng giả, liệt cổ kim danh tương phàm lục thập tứ nhân đồ hình yên: Việt tướng Phạm Lãi, Tề tướng Tôn Tẫn,..., Ngô vũ uy tương quân Nam quận Thái thủ Sàn Lăng hầu Lã Mông, đại tư mã Kinh châu mục Lục Kháng... Thái úy  Trung thư lệnh Thượng phụ Phần Dương quận vương Quách Tử Nghi
  48. ^ Tống sử, quyển 105: Tuyên Hòa ngũ niên, Lễ bộ ngôn: Vũ Thành vương miếu tòng tự, trừ bổn truyền dĩ hữu phong tước giả, kì vị kinh phong tước chi nhân: Tề tướng Quản Trọng nghĩ phong Trác Thủy hầu, Đại tư mã Điền Nhương Tư Hoành San hầu,... Đặng Ngải, Trương Phi, Lã Mông, Lục Kháng, Đô Dự, Đào Khản, Mộ Dung Khác, Vũ Văn Hiến... tịnh đông hướng, phàm thất thập nhị tướng vân
  49. ^ Tam quốc diễn nghĩa, hồi 119